Chủ nhật, 22/12/2024 21:29 GMT+7
Thứ năm, 30/06/2016 09:14 GMT+7

Một số vấn đề Thanh tra hoạt động nghiên cứu KH&CN

 (Phục vụ tập huấn thanh tra KH&CN - 2016)

 _______________  

Mai Chí Thuần - Phó Chánh Thanh tra Bộ KH&CN

 

- Đặt vấn đề 

- Đặc điểm hoạt động nghiên cứu KH&CN

- Phòng chống tham nhũng trong hoạt động nghiên cứu KH&CN

- Thanh tra nhiệm vụ KH&CN

- Kết luận

_______________

 

I- ĐẶT VẤN ĐỀ

 

Hoạt động thanh tra chuyên ngành KH&CN là hoạt động của cơ quan thanh tra nhà nước trong lĩnh vực KH&CN, nên có 03 chức năng chính gồm: (1) Thanh tra trách nhiệm trong QLNN; (2) Giúp Thủ trưởng cơ quan QLNN Giải quyết khiếu nại, tố cáo; (3) Nòng cốt trong Phòng, chống tham nhũng.

Thanh tra hoạt động nghiên cứu KH&CN là hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước với đối tượng cụ thể là đề tài - dự án KH&CN cùng các tổ chức, cá nhân thực hiện nghiên cứu triển khai và cả công tác quản lý các đề tài - dự án này.

Hoạt động thanh tra đề tài - dự án cũng là hoạt động thanh tra nhà nước, nên có nội dung chung giống hoạt động thanh tra hành chính và cả nội dung riêng chuyên ngành đã được quy định tại Luật Thanh tra - 2010. Quy trình thanh tra hoạt động nghiên cứu KH&CN cũng phải tuân thủ theo quy định của Luật Thanh tra để bảo đảm tính pháp lý của hoạt động thanh tra nhằm thu thập thông tin, pháp lý hoá thông tin và xử lý các vi phạm theo quy định hoặc đề xuất xử lý. 

Các hoạt động nghiên cứu KH&CN nói chung đều chịu sự điều chỉnh của Luật KH&CN. Bên cạnh đó, hầu hết kinh phí cho hoạt động nghiên cứu hiện nay đều từ nguồn NSNN, nên hoạt động này còn phải thực hiện các quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng, các quy định pháp luật khác (Luật Ngân sách, Luật Kế toán, Luật Thống kê,…) và các văn bản quy định liên quan của Bộ/ ngành, địa phương theo thẩm quyền.

Mặt khác, hoạt động nghiên cứu KH&CN là những hoạt động có tính đặc thù thường được quy định bởi tính chất công việc, môi trường hoạt động và cả đặc điểm tâm lý của cộng đồng thực hiện nghiên cứu khoa học. Do vậy, để bảo đảm thực hiện thanh tra đề tài - dự án có hiệu quả, ngoài các nội dung về nghiệp vụ thanh tra và quy định quản lý cũng cần tiếp cận tìm hiểu đặc thù của hoạt động nghiên cứu KH&CN nói chung và thực tiễn nước ta hiện nay.

 

II- ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KH&CN

 

1- Khái niệm và đặc điểm hoạt động nghiên cứu KH&CN

 

1.1. Khái niệm về hoạt động nghiên cứu KH&CN 

 

Nghiên cứu thường được mô tả là một quy trình tìm hiểu tích cực, cần cù và có hệ thống nhằm khám phá, phiên giải và xem xét các sự kiện. Sự điều tra tri thức này tạo ra sự hiểu biết tốt hơn về các sự kiện, hành vi hoặc giả thuyết và tạo ra các ứng dụng thực tế thông qua các định luật và giả thuyết. Thuật ngữ nghiên cứu cũng được sử dụng để mô tả việc thu thập thông tin về các vấn đề chuyên môn và nó thường liên quan đến khoa học và các phương pháp khoa học.

Nghiên cứu khoa học là tìm cái mới, dò dẫm tìm cái chưa biết, phát triển tri thức để giải quyết một vấn đề chưa có giải pháp sẵn. Quá trình tìm tòi, sáng tạo ấy không thể bảo đảm thành công tuyệt đối, vì thường có những yếu tố bất ngờ, định tìm cái này lại ra cái khác.

Như vậy hoạt động nghiên cứu khoa học có thể phân loại, tuỳ theo trình độ phát triển, ở các góc độ tiếp cận khái quát khác nhau như sau:

Theo chức năng (truyền thống) gồm các bước: Mô tả định tính, định lượng, phân biệt và hệ thống các hiện tượng sự kiện; Giải thích chỉ ra nguyên nhân về các sự kiện, hiện tượng; Sáng tạo các giải pháp tác động vào đối tượng để phục vụ lợi ích và nhu cầu của con người; và Dự báo.

Theo tính thông tin gồm các bước: Thu thập thông tin; Xử lý phân loại thông tin; Đóng gói thông tin; Sử dụng thông tin.

Theo sản phẩm (thông thường) gồm các bước: Nghiên cứu cơ bản; Nghiên cứu ứng dụng; Nghiên cứu triển khai.

Theo sự “can thiệp của nhà nước” để phục vụ quản lý nhà nước (Tham khảo TS. Hoàng Xuân Long – Viện CLCS KH&CN - Tạp chí KH&CN VN số 10/2015) có thể chia thành 03 loại: 

(i) Khoa học do cá nhân nghiên cứu theo nhu cầu tự thân với khát vọng hiểu biết thế giới, có thể hy sinh quên mình, quay lưng lại với “cơm áo gạo tiền” thực tế, tự do – tự giác theo cảm hứng của cá nhân nghiên cứu… Tạm gọi loại hoạt động khoa học này là “mang tính tôn giáo”;

(ii) Khoa học trực tiếp phục vụ các nhu cầu của nhà nước được tổ chức chặt chẽ theo nguyên tắc với yêu cầu quản lý về tiến độ, kinh phí, nội dung và ứng dụng kết quả. Đây là loại hoạt động khoa học phục vụ nhà nước, nên bị chi phối về đặc điểm quản lý đầu tư tài chính công;

(iii) Khoa học phục vụ doanh nghiệp do doanh nghiệp tự quyết định mọi mặt, hỗ trợ của nhà nước là dự báo định hướng và nhà nước chỉ can thiệp gián tiếp qua chính sách khuyến khích ưu đãi về thuế, tín dụng,.. 

Theo tiếp cận đổi mới - sáng tạo KH&CN (Innovation - Tham khảo TS. Đinh Thế Phong – Viện CLCS KH&CN): Đặc điểm lớn nhất của tiếp cận này là góp phần nâng cao tính cạnh tranh nắm bắt các cơ hội phát triển của nền kinh tế. Đổi mới -sáng tạo KH&CN, với mục đích thương mại hóa tri thức, có nội hàm rộng hơn và đem lại giá trị hơn nhiều so với "KH&CN" ở tất cả các thời kỳ trước đây.

 

1.2. Đặc điểm chung của hoạt động nghiên cứu KH&CN

 

Hoạt động nghiên cứu KH&CN là một hoạt động đặc thù lấy sự sáng tạo làm mục đích chủ đạo. Đặc điểm nổi bật chung của hoạt động này là tính mới, có thông tin, sự kế thừa và cả rủi ro. 

Thông thường, đánh giá hoạt động nghiên cứu KH&CN phải có cách nhìn tổng thể và phải có tính hiệu quả về các mặt: Kinh tế; Xã hội; và Khoa học. Với khoa học phải định lượng được tri thức, giải pháp mới nếu đánh giá thành công và cũng phải có kết luận, bài học nếu đánh giá thất bại. Như vậy kết quả khách quan của hoạt động nghiên cứu khoa học có thể thành công theo dự tính và có thể thất bại, không theo mong muốn. 

Để sự đánh giá có tính thông tin tin cậy, cần phải có đồng bộ hệ thống phân loại đánh giá, tiêu chí đánh giá và phương thức đánh giá.

 Tiêu chí đánh giá ở nước ta hiện nay phổ biến gồm 3 yếu tố: Nội dung (tính mới, khoa học, ứng dụng thực tiễn, hiệu quả kinh tế - xã hội,…); Thời gian tiến độ (tính thời cơ); Kinh phí (khả thi, hiệu quả cụ thể).

Phương thức đánh giá thưòng được áp dụng gồm: Hội đồng (truyền thống); Chuyên gia (hiện đại); và Phản biện kín.

 

 1.3. Một số “mâu thuẫn” trong hoạt động nghiên cứu KH&CN 

 

 “Mâu thuẫn” bao trùm nhất trong mối quan hệ giữa hoạt động nghiên cứu và quản lý KH&CN là sự tương phản giữa tính tự do, độc lập sáng tạo, tìm tòi cái chưa biết của nghiên cứu khoa học với sự “ràng buộc” tuân thủ các quy chế quản lý, đặc biệt với các quy chế không còn phù hợp. 

Mặt khác cũng cần phân biệt hai khái niệm lãnh đạo (Leadership) và quản lý (Management) KH&CN để hạn chế sự hành chính hóa (Administrative) hoạt động nghiên cứu KH&CN.

Vấn đề đạo đức nghề nghiệp và sự dịch chuyển chuẩn mực ứng xử theo hoàn cảnh cũng cần được xem xét thoả đáng, vì nhiều quy tắc ứng xử đặc thù trong cộng đồng hoạt động khoa học chưa thể điều chỉnh bằng quy định quản lý. 

Sự tự do tinh thần trong nghiên cứu khoa học là hết sức cần thiết để tạo dựng được những tập thể khoa học năng động, gắn bó với nhau và làm việc có hiệu quả, làm xuất hiện những tài năng khoa học thật sự.

“Mâu thuẫn” thường gặp nhất là đòi hỏi về tính hiệu quả đầu tư tài chính cho khoa học với “độ trễ” thời gian ứng dụng kết quả của hoạt động nghiên cứu khoa học.

Đòi hỏi về hiệu quả đầu tư luôn là nhu cầu chính đáng của nhà đầu tư tài chính, người dân đóng thuế, nhà quản lý và của chính hoạt động nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên vấn đề “độ trễ” thời gian của hoạt động nghiên cứu khoa học cũng cần được đánh giá công bằng. Trong hoạt động khoa học, từ nghiên cứu đến triển khai thực tiễn và thương mại hoá công nghệ thường có “độ trễ” thời gian nhất định, phụ thuộc vào trình độ phát triển và tính định hướng thực tiễn của nghiên cứu. Xu thế chung của phát triển khoa học và công nghệ đang làm giảm “độ trễ” thời gian này. 

Nếu nhìn nhận đúng bản chất của hoạt động nghiên cứu khoa học thì toàn bộ quá trình nghiên cứu chắc chắn chỉ là sự chi phí tài chính cho nghiên cứu. Ngoài ra, khi đầu tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học còn phải chấp nhận rủi ro. Đây cũng chính là tính đặc thù của nghiên cứu khoa học. 

Nhiều nhà khoa học cho rằng, theo quy định, phải thực hiện kế hoạch hoá “cái chưa biết” và làm dự toán, giải trình tài chính về “cái chưa biết” còn khó hơn cả nghiên cứu “cái chưa biết”. Do vậy, hiện nay cơ chế tài chính đang là nội dung cần cải tiến đầu tiên để không “làm khó” các nhà khoa học và các nhà khoa học không bị xem như là “đối tượng kiếm tiền” trong hoạt động nghiên cứu khoa học. Vấn đề “xin – cho” của cơ chế vẫn cần cho hoạt động nghiên cứu khoa học, nhưng sẽ phải thay đổi cách thức “xin” và “cho” thích hợp hơn.

“Mâu thuẫn” giữa vai trò tập thể số đông và tính cá nhân trong hoạt động nghiên cứu KH&CN. Quan niệm về tập thể hội đồng khoa học và cá nhân sáng tạo trong nghiên cứu khoa học cũng cần được xem xét thỏa đáng, vì tính mới và sáng tạo khoa học thường mang tính cá nhân. 

 

1.4. Một số đặc điểm của người làm nghiên cứu KH&CN và trí thức

 

Lê nin đã ý thức rất rõ “cái tôi” quan trọng như thế nào đối với người trí thức khi ông viết những dòng sau đây:

“Vũ khí của người trí thức chính là sự hiểu biết của cá nhân họ, những năng lực và niềm tin của cá nhân họ. Họ chỉ nhờ vào những phẩm chất cá nhân nên mới có thể đóng được một vai trò nào đó trong xã hội. Vì thế đối với họ quyền được hoàn toàn tự do biểu hiện bản chất cá nhân của mình là điều kiện đầu tiên để công tác được kết quả. Với tư cách là một bộ phận trong toàn thể, họ chỉ phục tùng toàn thể đó một cách miễn cưỡng, phục tùng vì bắt buộc chứ không phải tự nguyện...(V. I. Lê nin Toàn tập tiếng Việt, NXB Tiến bộ, 1979, tập 8, tr. 373).

Lê nin đã nói thế có nghĩa là xây dựng đội ngũ trí thức theo kiểu “tập thể số đông đồng phục” là không dễ, hay đúng hơn, không thể.

Trí thức là một tập hợp mở và đa dạng nên đặc điểm của tầng lớp này cũng rất phong phú. Tuy nhiên, giữa các nhà trí thức, nhất là bộ phận hạt nhân của tầng lớp này, cũng có những đặc điểm phẩm chất chung; phẩm chất nào cũng có mặt mạnh và mặt yếu của nó. Phải chăng có thể nói đến những đặc điểm phẩm chất sau:

1. Rất ham học, ham đọc;

2. Luôn sáng tạo trong cách nghĩ, cách làm; ít khi theo công thức sẵn có;

3. Luôn có thói quen lật lại vấn đề;

4. Trung thành với niềm tin có căn cứ;

5. Trọng danh hơn trọng lợi và thường có hoài bão;

6. Thường khảng khái, tự trọng;

7. Thường cư xử lịch thiệp.

 

2.  Đặc điểm hoạt động nghiên cứu KH&CN ở Việt Nam

 

2.1. Quy trình hình thành và trình tự thực hiện 

 

Căn cứ vào Luật KH&CN, quy trình hình thành và trình tự thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu KH&CN gồm các bước cơ bản như sau:

- Xác định nhiệm vụ

- Tuyển chọn, xét chọn chủ trì thực hiện

- Thẩm định

- Ký hợp đồng thực hiện

Triển khai thực hiện

- Kiểm tra định kỳ 

- Điều chỉnh  nội dung, kinh phí, tiến độ

- Đánh giá, nghiệm thu

- Công nhận kết quả

- Thanh lý hợp đồng

- Giao nộp kết quả

- Sử dụng kết quả

Mỗi bước cơ bản trên thường được quy định cụ thể tại các văn bản quản lý chi tiết cho từng nội dung.

 

2.2. Kinh phí bảo đảm 

 

Kinh phí bảo đảm cho nghiên cứu KH&CN ở nước ta chủ yếu từ NSNN,  nên việc sử dụng phải tuân thủ các quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng, tài chính, kế toán, … và tiếp theo là các vấn đề về sở hữu trí tuệ như quyền tác giả, quyền sở hữu kết quả nghiên cứu,…theo quy định của Luật KH&CN.

Kinh phí NSNN cho nghiên cứu KH&CN là đầu tư tài chính công, do vậy cũng phải tuân thủ các quy định pháp luật về trình tự thủ tục gồm chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và kết thúc đầu tư tương thích với 03 bước cơ bản của quy trình hình thành và trình tự thực hiện nhiệm vụ KH&CN.

 

2.3. Các loại hình nhiệm vụ nghiên cứu KH&CN

 

Hoạt động nghiên cứu KH&CN có ở mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội và ở mọi cấp từ trung ương đến địa phương, nên việc quản lý hoạt động này cũng được phân thành nhiều loại hình khác nhau với những quy định quản lý cụ thể.

Theo cấp “hành chính” có nhiệm vụ cấp Nhà nước, Bộ/ngành, Tỉnh/Tp và cấp cơ sở. 

Theo nội dung có các Chương trình KH&CN cấp Quốc gia, Chương trình trọng điểm cấp Nhà nước, Chương trình Nông thôn miền núi, hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ (theo Nghị định 119/1999/NĐ-CP), Chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ của doanh nghiệp (theo Quyết định 68/2005/QĐ-TTg), Nghị định thư hợp tác quốc tế, nghiên cứu cơ bản, và các nhiệm vụ cấp thiết ở địa phương, Chương trình của các Bộ ngành, v.v.…

 

III- PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KH&CN 

 

1. Một số vấn đề chung về tham nhũng 

 

1.1. Quan niệm về tham nhũng 

 

Tổ chức Minh bạch Quốc tế (International Transparency - IT) đưa ra định nghĩa được thừa nhận rộng rãi: Tham nhũng là hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc cố ý làm trái pháp luật để phục vụ lợi ích cá nhân; biểu hiện chính của tham nhũng là lạm dụng quyền lực, bưng bít thông tin và thiếu trách nhiệm giải trình.

Theo Luật Phòng chống tham nhũng - 2005 thì “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”. 

Như vậy, có thể thấy vẫn còn rất nhiều quan niệm khác nhau về tham nhũng. Tuy nhiên, theo nghĩa hẹp và là khái niệm chính thống được pháp luật Việt Nam quy định thì tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi; người có chức vụ, quyền hạn chỉ giới hạn ở những người trong khu vực nhà nước, tức là ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách, vốn, tài sản của Nhà nước.

 

1.2. Các dấu hiệu đặc trưng của tham nhũng

 

Nguồn gốc của tham nhũng chính là sự hội tụ của hai yếu tố quyền lực và vụ lợi cá nhân, xét cho cùng thì lợi ích kinh tế là gốc rễ sâu xa của hiện tượng tham nhũng.

Phân tích khái niệm “tham nhũng” theo quy định của pháp luật Việt Nam, có thể thấy tham nhũng có những đặc trưng cơ bản như sau: Chủ thể tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn và đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao vì mục đích vụ lợi.

 

1.3. Công cụ nhận dạng tham nhũng 

 

Tổ chức Minh bạch Quốc tế cũng đưa ra quan điểm của nhiều tác giả xác định qui luật hoạt động của tham nhũng trong thực tế công quyền dưới dạng công thức tạm dịch như sau: 

Tham nhũng = Độc quyền + Bưng bít thông tin - Trách nhiệm giải trình.

Với công thức trên, có thể dễ dàng nhận dạng tham nhũng trong các biểu hiện của nó: thừa độc quyền, bưng bít thông tin và thiếu trách nhiệm giải trình.

 

2. Các hiện tượng bất cập và dấu hiệu hành vi tham nhũng trong hoạt động nghiên cứu KH&CN 

 

Trong thời gian qua, hoạt động khoa học và công nghệ nước ta đã có nhiều đổi mới góp phần tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, nhiều hiện tượng bất cập cũng xuất hiện trong quản lý và nghiên cứu khoa học, thậm chí có hiện tượng đã trở thành phổ biến gây bức xúc cho cộng đồng nghiên cứu khoa học và dư luận xã hội.

Các hiện tượng này cũng có thể được xem như một dạng tham nhũng cơ hội trong nghiên cứu khoa học và công nghệ, gây thất thoát lãng phí cho xã hội, suy thoái đạo đức nghề nghiệp của cộng đồng nghiên cứu khoa học và có thể làm mất cơ hội sáng tạo của cả thế hệ làm nghiên cứu khoa học tiếp theo.

Trên cơ sở khoa học về dấu hiệu đặc trưng của tham nhũng, đặc điểm của hoạt động nghiên cứu khoa hoc và khi xem xét phân tích các hiện tượng bất cập dưới góc độ tiếp cận về chủ thể tham nhũng cho thấy, có 3 nhóm chủ thể chính có khả năng thực hiện hành vi tham nhũng là các đối tượng Quản lý khoa học, Hội đồng tư vấn khoa học và Cộng đồng thực hiện nghiên cứu khoa học. 

Sự phân chia vị trí chủ thể chỉ có ý nghĩa trong từng mối quan hệ cụ thể, vì các cá nhân trong cộng đồng hoạt động khoa học có thể cùng lúc đảm nhiệm một hoặc cả 3 vị trí chủ thể như trên ở các mối quan hệ khác nhau.

 

2.1. Nhóm chủ thể Quản lý khoa học

 

Đây là nhóm chủ thể có nguy cơ cao nhất và có thể dễ dàng trở thành trung tâm của hành vi tham nhũng trong hoạt động khoa học, nhưng lại vô cùng tinh vi, kín kẽ, phức tạp. Tại đây có sự liên kết giữa các cá nhân có quyền lực trong bộ máy quản lý hoạt động khoa học và các đầu mối , chủ thể khác.

Dư luận xã hội đã từng nêu cơ chế “xin – cho” chưa hợp lý sinh ra tình trạng ngược “cho – xin”, khi đó chủ thể trong khối cơ quan quản lý có nhiệm vụ giải ngân kinh phí nghiên cứu phải đi tìm các tổ chức, cá nhân có chức năng và khả năng  nghiên cứu để “mời” làm chủ trì, chủ nhiệm đề tài, dự án với mục đích đầu tiên chỉ nhằm giải ngân theo dạng “gọt chân cho vừa giầy”. 

 

2.2. Nhóm chủ thể Hội đồng tư vấn khoa học

 

Theo thống kê chưa chính thức, hệ thống đánh giá hiện nay đưa ra kết quả các đề tài, dự án được đánh giá nghiệm thu xuất sắc và khá với tỷ lệ cao. Tuy nhiên các kết quả đã nghiệm thu được áp dụng trong thực tế là quá khiêm tốn. Hệ thống đánh giá đầy “bệnh thành tích” như trên dễ dàng triệt tiêu các nghiên cứu khoa học nghiêm túc, góp phần làm lãng phí cơ hội, kinh phí và thời gian của hoạt động nghiên cứu khoa học.

Phương thức đánh giá hiện nay chủ yếu dựa vào hội đồng tư vấn khoa học. Nói chung, các hội đồng đều làm việc nghiêm túc có trách nhiệm, tuy nhiên trong phiếu nhận xét cá nhân vẫn còn nhiều thành viên không đưa ra nhận xét hoặc nhận xét thiếu định lượng gây khó khăn cho cơ quan quản lý trong nhiêù trường hợp cần thiết. Cá biệt, có thành viên nhận xét chê hoặc khen thái quá và cũng có thành viên nhận xét cảnh báo chính xác dù chỉ là thiểu số trong ý kiến chung của hội đồng. 

Dư luận cộng đồng khoa học đã cảnh báo nhiều về chất lượng thành viên hội đồng, sự “móc ngoặc” liên kết giữa các cá nhân (vì nhiều cá nhân  vừa là thành viên xét duyệt ở hội đồng này lại là vừa tham gia đấu thầu thực hiện ở hội đồng khác), cũng như sự né tránh phản biện độc lập các vấn đề về khoa học, đặc biệt trong khoa học xã hội.  

Như vậy ở vị trí là thành viên hội đồng tư vấn, một cá nhân có thể can thiệp vào quyết định nào đó qua vai trò tư vấn đã được luật hoá của mình và sẽ là nguy hiểm khi “sĩ diện học giả bị làm ngơ”. 

 

2.3. Nhóm chủ thể cộng đồng thực hiện nghiên cứu khoa học

 

Trùng lặp

Không ít tổ chức, cá nhân có khả năng chủ trì đề tài, dự án thường đề xuất xây dựng nhiệm vụ nghiên cứu theo thế mạnh có sẵn, xa rời thực tế, không tính được nhu cầu từ thực tiễn, nên dễ trùng lặp và thậm chí có thể có tình trạng làm lại nội dung mà chính cơ sở đã từng thực hiện hoàn thành hoặc đang được khai thác ứng dụng nhưng chưa công bố. 

Công bố kết quả

Việc công bố các bài báo khoa học trên các tạp chí chuyên ngành là một phần của tiêu chí đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên vẫn có chủ nhiệm đề tài, dự án còn “nhầm lẫn” tự điền vào mẫu biểu báo cáo cả các bài giới thiệu hoặc quảng cáo trên các báo thông tin đại chúng hàng ngày. Sự “nhầm lẫn” này chủ yếu đưa lại vụ lợi về tinh thần để phục vụ “bệnh thành tích”.    

Sử dụng kinh phí sai mục đích

Việc sử dụng kinh phí sai mục đích dẫn đến nội dung, dự trù kinh phí, chứng từ tài chính của đề tài, dự án  là "ảo" và kết quả đề tài, dự án không còn ý nghĩa triển khai ứng dụng.

Lừa đảo hoàn toàn

Đã có trường hợp tổ chức, cá nhân hoạt động nghiên cứu khoa học và doanh nghiệp lợi dụng chính sách khuyến khích nghiên cứu khoa học hỗ trợ sản xuất của Nhà nước và tình trạng lỏng lẻo của công tác quản lý để thực hiện lừa đảo nhằm chiếm đoạt kinh phí nghiên cứu khoa học từ ngân sách Nhà nước. 

Lạm quyền và “đạo văn”

Có tình trạng chủ nhiệm đề tài, dự án là công chức có vị trí trong bộ máy quản lý Nhà nước, dẫn đến các “chủ nhiệm hờ” không còn quỹ thời gian để thực hiện nhiệm vụ khoa học, nhưng nhiệm vụ KH&CN vẫn được hoàn thành.

“Cai thầu”, phi dân chủ  trong khoa học

Vấn đề phi dân chủ trong khoa học cũng đã từng xuất hiện ở không ít tổ chức nghiên cứu khoa học, dẫn đến tình trạng độc quyền, “cai thầu” trong nghiên cứu khoa học và để nhiều cán bộ nghiên cứu khác đành “ở ẩn” giữa tổ chức của mình hoặc “làm thêm” việc khác, gây nên hiện tượng lãng phí và “chảy máu chất xám” tại chỗ.

Từ thiếu dân chủ đến các hành vi tham nhũng tại cơ sở chỉ còn là một khoảng hẹp, tình trạng này đã bắt đầu xuất hiện và phát triển trong môi trường trí thức hoạt động khoa học, giáo dục – đào tạo, y tế, cũng có thể coi đây là “thành luỹ cuối cùng” của đạo đức xã hội bị mặt trái của cơ chế thị trường xâm lấn. 

 

3. Nguyên nhân và giải pháp phòng, chống tham nhũng 

 

3.1. Nguyên nhân 

 

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tham nhũng, bao gồm nguyên nhân khách quan và chủ quan, nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp. 

Nếu tiếp cận từ phía hệ thống có thể thấy rõ 4 nguyên nhân chủ yếu như sau: (1) Có nhiều bất cập trong thể chế, chính sách và hệ thống luật pháp; (2) Tình trạng mất dân chủ, và sự thiếu công khai minh bạch trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước; (3) Tình trạng tha hóa về đạo đức đang gia tăng trong đội ngũ đảng viên, cán bộ công chức của hệ thống  chính trị và bộ máy nhà nước; (4) Xã hội xuống cấp về nhiều mặt do chịu tác động của 3 nguyên nhân đầu.

 

3.2. Giải pháp chung phòng, chống tham nhũng 

 

Các biện pháp phòng ngừa tham nhũng được xem là có hiệu quả và đang được triển khai theo Luật Phòng, chống tham nhũng ở nước ta như sau: (1) Công khai minh bạch trong hoạt động; (2) Xây dựng và thực hiện các chế độ, tiêu chuẩn; (3) Thực hiện quy tắc ứng xử và quy tắc đạo đức nghề nghiệp; (4) Minh bạch thu nhập của cán bộ công chức; (5) Quy định trách nhiệm công vụ và đề cao trách nhiệm chính trị của người đứng đầu các cơ quan, tổ chức; (6) Cải cách hành chính, đổi mới công nghệ quản lý, tăng cường tự động hóa. 

Ngoài ra, còn có thể nêu những giải pháp cơ bản có tính nguyên tắc chi phối bất cứ xã hội tiên tiến nào và hoàn toàn có thể áp dụng ở Việt Nam. 

Thứ nhất, bảo đảm cơ chế phân quyền rõ ràng giữa các cơ quan hành pháp, lập pháp và tư pháp. Thực hiện quyền giám sát cần thiết và mạnh mẽ của nhân dân và tạo ra sự cân bằng giữa điều hành chính phủ và điều hành khối hành chính công. Riêng cơ quan thanh tra luôn tạo điều kiện cho người dân gửi các thắc mắc của mình. 

Thứ  hai, bảo đảm có bộ máy tư pháp độc lập. Tất cả các công dân, không phân biệt nghề nghiệp, giàu nghèo, khi đã ra đến Tòa án đều được đảm bảo sự xét xử công bằng và Tòa án được nhân dân tin tưởng. 

Thứ ba, bảo đảm quyền được thông tin và tiếp nhận thông tin. Hệ thống truyền thông báo chí đóng vai trò quan trọng trong quản lý, quản trị nhà nước. Các bộ luật về "Tự do thông tin"  và "Bộ luật về quản lý công" đảm bảo tính minh bạch và khả năng tiếp cận với các thông tin của cơ quan nhà nước là một yếu tố quan trọng. Ngân sách nhà nước được công khai và có thể dễ dàng tiếp cận. 

Thứ tư, tiêu chuẩn hóa đầy đủ các quy định, quy trình thủ tục thực thi pháp luật thể hiện qua hình thức lập pháp với các qui chế và qui định rõ ràng đảm bảo tính chất ổn định của bộ máy hành chính công và chất lượng dịch vụ liên quan. Khi đó ảnh hưởng cảm tính cá nhân và việc sử dụng quyền lực tùy tiện có thể được giảm tới mức tối đa.  Nếu phát hiện tham nhũng thì đã có những qui định pháp luật rõ ràng cho việc điều tra và xét xử sau đó.   

Thứ năm, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức nhà nước chuyên nghiệp được hướng dẫn bởi các qui tắc đạo đức rõ ràng về chống tham nhũng. Bảo đảm hệ thống tiền lương cho các công chức nhà nước có thu nhập tốt và phù hợp để họ có thể yên tâm cống  hiến thời gian và năng lực cho công việc.

 

3.3. Công khai thông tin trong hoạt động nghiên cứu KH&CN

 

Để góp phần phòng, chống tham nhũng trong hoạt động nghiên cứu KH&CN có hiệu quả, bên cạnh việc áp dụng các giải pháp chung đã nêu cần ưu tiên tập trung thực hiện công khai minh bạch mọi thông tin về hoạt động khoa học như nội dung, kinh phí, kết quả, ứng dụng, người thực hiện, đánh giá của hội đồng, các quy định quản lý, v.v…, nhằm tạo điều kiện cho mọi thành phần xã hội dễ dàng tiếp cận thông tin để bảo đảm sự giám sát dân chủ của cộng đồng khoa học và xã hội, cũng như khẳng định sự đóng góp và vai trò của hoạt động khoa học với phát triển xã hội.

Các quy định về phương pháp, nội dung, phạm vi, thời gian, đối tượng cần công khai đều đã được hướng dẫn tại các văn bản QPPL liên quan, cụ thể: 

- Luật KH&CN 2013, Điều 14 về công khai trong việc sử dụng kinh phí và thực hiện nhiệm vụ KH&CN; Điều 26 về công bố công khai nhiệm vụ đặt hàng;  Điều 29 về công khai danh mục nhiệm vụ KH&CN sử dụng NSNN và các điều kiện, thủ tục tham gia tuyển chọn thực hiện, công khai kết quả tuyển chọn tổ chức cá nhân tham gia thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng NSNN; Điều 37 về công khai danh mục nhiệm vụ KH&CN sử dụng NSNN đã được nghiệm thu; 

- Luật Phòng, chống tham nhũng, Điều 25 về công khai, minh bạch trong lĩnh vực khoa học - công nghệ; 

- Thông tư 27/2015/TTLT-BKHCN - BTC ngày 30/12/2005 Quy định  khoán chi thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng NSNN, Điều 18. Quy định về công khai thông tin nhiệm vụ.

 

IV- QUY TRÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP THANH TRA HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KH&CN

 

Quy trình và phương pháp tiến hành cuộc thanh tra nói chung đều phải tuân thủ quy định của Luật Thanh tra và đã được hướng dẫn cụ thể trong các tài liệu nghiệp vụ do Thanh tra Chính phủ biên soạn, gồm 02 nội dung lớn như sau:   

 

1. Đối với người ban hành quyết định và kết luận thanh tra 

 

Ban hành quyết định; Chỉ đạo chặt chẽ và giám sát đoàn thanh tra thực hiện; Ban hành kết luận thanh tra; Chỉ đạo xử lý và đôn đốc thực hiện kết luận thanh tra.

 

2. Quy trình tiến hành thanh tra (gồm 03 bước)

 

Chuẩn bị thanh tra; Trực tiếp thanh tra tại cơ sở; và Kết thúc thanh tra. 

Bước 1. Chuẩn bị thanh tra (Có thể chuẩn bị cả trước khi có quyết định thanh tra): Tìm hiểu tình hình mọi mặt về đối tượng; Thống nhất quán triệt nội dung, kế hoạch, phương pháp tiến hành, phân công từng thành viên – có thể tập huấn; Xây dựng đề cương kịch bản yêu cầu đối tượng thực hiện báo cáo; Chuẩn bị kinh phí, trang bị kỹ thuật cần thiết để bảo đảm tính độc lập và thanh tra được thuận lợi, hiệu quả. 

Bước 2. Trực tiếp thanh tra tại cơ sở: Công bố quyết định thanh tra; Tiếp nhận báo cáo của đối tượng; Thực hiện nghiệp vụ thanh tra trên hồ sơ, báo cáo và xác minh đối chiếu thực tế; Thu nhận thông tin từ quần chúng, công luận báo chí, các đầu mối liên quan và từ kết quả của các cơ quan đã thực hiện thanh tra - kiểm tra – kiểm toán - giám sát; Nghe ý kiến của chủ quản cấp trên trực tiếp; Tổ chức đối thoại chất vấn; Xử lý các hành vi chống đối; Xử lý các mối quan hệ; Lập biên bản pháp lý hoá các thông tin cần thiết, hoàn chỉnh từng phần hồ sơ thanh tra (chú ý không giữ hồ sơ gốc của đối tượng).

Bước 3. Kết thúc thanh tra: Xây dựng báo cáo kết quả thanh tra; Xây dựng dự thảo kết luận thanh tra (có thể gửi dự thảo cho đối tượng); Công bố và gửi kết luận thanh tra cho đối tượng và các thành phần liên quan; Công khai Kết luận thanh tra; Hoàn tất hồ sơ thanh tra để lưu trữ; Tổng kết rút kinh nghiệm trong đoàn thanh tra.

 

3. Nội dung và phương pháp để xây dựng kế hoạch thanh tra 

 

Trong việc xây dựng kế hoạch thanh tra thường phải lựa chọn nội dung thanh tra và lựa chọn cách thức tổ chức tiến hành thanh tra phù hợp để bảo đảm hoàn thành được kế hoạch đề ra trong điều kiện nhân lực và thời gian hữu hạn.

Từ thực tiễn đặc điểm hoạt động nghiên cứu KH&CN của nước ta, có hai cách thức tiến hành thanh tra phổ biến đã được áp dụng có thể tạm phân loại là thanh tra theo “chiều ngang” và thanh tra theo “chiều dọc” và nên kết hợp áp dụng cả hai cách thức  để bảo đảm có được thông tin đại diện phục vụ cho hoàn thiện công tác quản lý.

Thanh tra theo “chiều ngang” là tiến hành cuộc thanh tra đối với việc thực hiện toàn bộ hoặc một phần quy trình, thủ tục Xác định nhiệm vụ, Tuyển chọn – Xét chọn, Ký hợp đồng, Triển khai thực hiện, Đánh giá nghiệm thu, Giao nộp kết quả và Sử dụng kết quả với một loạt nhiệm vụ KH&CN.

- Mục tiêu: Kiểm tra việc chấp hành và xem xét sự phù hợp của các quy định nhằm đôn đốc thực hiện hoặc kiến nghị điều chỉnh, bổ sung.

- Nội dung: Thanh tra việc chấp hành và thực hiện quy trình, thủ tục.

- Đối tượng chủ yếu: Cơ quan, cá nhân công tác quản lý KH&CN.

- Ưu điểm: Có thể tiến hành với nhiều nhiệm vụ trong một giai đoạn, có thể lựa chọn áp dụng để tổ chức thanh tra chuyên đề diện rộng.

- Hạn chế: Không đủ điều kiện để xem xét kỹ việc triển khai thực hiện của từng nhiệm vụ KH&CN. 

Thanh tra theo “chiều dọc” là tiến hành cuộc thanh tra đối với một hoặc một số nhiệm vụ KH&CN về việc triển khai thực hiện.  

  - Mục tiêu: Kiểm tra việc chấp hành các quy định pháp luật liên quan trong thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ KH&CN cụ thể.

- Nội dung: Thanh tra việc triển khai thực hiện nhiệm vụ.

- Đối tượng chủ yếu: Cơ quan, cá nhân cộng đồng chủ trì thực hiện nghiên cứu KH&CN.

- Ưu điểm: Có thể xem xét đánh giá việc chấp hành các quy định và việc triển khai thực hiện nội dung, tiến độ, kinh phí,… với từng nhiệm vụ cụ thể.

- Hạn chế: Không đủ điều kiện để xem xét nhiều nhiệm vụ KH&CN. 

 

4. Một vài lưu ý trong tổ chức hoạt động thanh tra 

 

- Hình thức thanh tra thường theo kế hoạch, quy mô phạm vi thường ở diện hẹp có thời hạn trung bình (khoảng 30 ngày theo quy định).

- Nội dung thanh tra thường giới hạn ở phần Triển khai thực hiện, tùy trường hợp cụ thể  có thể mở rộng theo yêu cầu phục vụ công tác quản lý.

- Lựa chọn đối tượng theo kế hoạch đã phê duyệt, theo nhu cầu phục vụ công tác quản lý, khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm và có tính đến các thông tin ngoại vi như đơn thư, dư luận báo chí, …để đề xuất ra quyết định thanh tra. Đối tượng cụ thể là Chủ nhiệm và Tổ chức chủ trì thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu KH&CN.

- Phân loại đối tượng là loại hình nhiệm vụ nghiên cứu KH&CN nào để có sự chuẩn bị phù hợp. 

- Chuẩn bị và nghiên cứu các văn bản quản lý liên quan đến loại hình của đối tượng.

- Chuẩn bị nhân sự đoàn thanh tra, phải tính đến cơ cấu lực lượng của đoàn thanh tra, năng lực của trưởng đoàn so với nhiệm vụ được giao. Có thể sử dụng cộng tác viên chuyên môn theo quy định của Luật Thanh tra. 

- Phân công nhân sự cụ thể chịu trách nhiệm các mặt: về tính pháp lý, trình tự thủ tục, biên bản; về chuyên môn kỹ thuật; về tài chính – kế toán và đều phải có báo cáo cho trưởng đoàn tổng hợp, lưu hồ sơ. Phân công các nhóm công tác xem xét hồ sơ, xác minh thực tế.

- Phổ biến Quy chế hoạt động Đoàn thanh tra của Thanh tra Chính phủ cho mọi thành viên, đặc biệt lưu ý các thành viên không thuộc cơ quan thanh tra.

- Thu nhận thông tin. Chủ động khai thác tìm hiểu thông tin về đối tượng từ nhiều kênh khác nhau như thư viện, internet,...; tạo kênh thuận lợi để tiếp nhận thông tin từ cơ sở, đăc biệt với thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo.

- Phương pháp thanh tra trực tiếp. Tiếp cận đối tượng theo 03 yếu tố chủ yếu: thực hiện nội dung chuyên môn, thời gian tiến độ và sử dụng kinh phí. Bám sát Thuyết minh đề cương kèm theo Hợp đồng nghiên cứu KH&CN; kiểm tra đối chiếu kết quả theo đăng ký; rà soát đối chiếu chứng từ liên quan; kiểm tra xác minh thực tế một số nội dung chính cần thiết. Phát hiện các vấn đề mâu thuẫn không hợp lệ, bất hợp lý. Yêu cầu đối tượng giải trình bổ sung. Xây dựng biên bản làm việc, pháp lý hóa những thông tin cần thiết. Có thể yêu cầu cung cấp một số bản copy hồ sơ chứng từ, chú ý có xác nhận của đối tượng và không thu giữ bản gốc. 

- Xây dựng Báo cáo kết quả thanh tra (Điều 49, Luật Thanh tra - 2010)

Thời hạn: Chậm nhất sau 15 ngày kết thúc thời hạn thanh tra;

Bố cục: Khái quát và tình hình chung về đối tượng; Kết quả thanh tra các nội dung theo quyết định, có kết luận đánh giá sai phạm, nguyên nhân, trách nhiệm cụ thể và xử lý đã thực hiện theo thẩm quyền; Kiến nghị người ra quyết định thanh tra các xử lý khác với đối tượng thanh tra ; Ý kiến chưa thống nhất trong đoàn thanh tra; và có thể bổ sung những thông tin nhận xét cần thiết khác.  

Phương pháp: Trưởng đoàn phải lấy ý kiến các thành viên, có biên bản hoặc bút tích góp ý kiến nhất trí hoặc chưa nhất trí; Khi cần thiết có thể yêu cầu đối tượng giải trình thêm (dù đã hết thời hạn thanh tra trực tiếp); Chú ý bảo mật  Báo cáo kết quả thanh tra, đặc biệt với thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo.

- Xây dựng Kết luận thanh tra  (Điều 50, Luật Thanh tra - 2010)

Thời hạn: Sau 15 ngày nhận Báo cáo kết quả thanh tra do trưởng đoàn thanh tra ký, người ra quyết định thanh tra  ký và ban hành Kết luận thanh tra để công bố công khai cho đối tượng và các đầu mối liên quan thực hiện (trừ trường hợp Mật!).

Bố cục: Đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của đối tượng thanh tra thuộc nội dung thanh tra; Kết luận về nội dung được thanh tra; Xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm (nếu có); Các biện pháp xử lý theo thẩm quyền đã được áp dụng; kiến nghị các biện pháp xử lý.

Phương pháp: Căn cứ vào Báo cáo kết quả thanh tra, có thể yêu cầu trưởng đoàn, thành viên đoàn báo cáo trực tiếp, có thể yêu cầu đối tượng giải trình thêm. Trường hợp cần thiết có thể giao đoàn thanh tra tiến hành thanh tra bổ sung và phải có biên bản báo cáo kết quả bổ sung

Kết luận thanh tra phải có sức thuyết phục cao, khách quan, khả thi trong việc thực hiện, xử lý nghiêm vi phạm, phòng ngừa sai phạm, phát hiện yếu tố tích cực để phát huy nhân rộng và những tồn tại của cơ chế quản lý để điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước.

 

V- KẾT LUẬN

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dặn dò, thanh tra là công tác quan trọng và có tính chất thường xuyên của cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước các cấp và nhấn mạnh “Thanh tra là tai mắt của trên, là bạn của dưới”. 

Quan điểm của Đảng về công tác thanh tra là bảo đảm cho lực lượng Thanh tra triển khai thực hiện 03 nhiệm vụ chính trị lớn: (1) Thanh tra trách nhiệm trong quản lý NN; (2) Giải quyết khiếu nại, tố cáo; (3) Nòng cốt trong Phòng, chống tham nhũng.

Do tính đặc thù của hoạt động nghiên cứu KH&CN và quy trình hình thành cũng như trình tự thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu KH&CN có kinh phí từ nguồn ngân sách nhà nước còn phải chịu sự điều chỉnh của các loại văn bản quy phạm khác nhau, nên trong thực tế có thể sẽ gặp nhiều tình huống xung đột, khó xử lý. Vì vậy, bên cạnh sự vận dụng linh hoạt xử lý theo tình hình thực tiễn cụ thể, cũng cần phát hiện các quy định chưa thích hợp hoặc không còn phù hợp để đề xuất cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh kịp thời, nhằm phục vụ cho hoạt động nghiên cứu KH&CN được thuận lợi và hiệu quả.

Hoạt động thanh tra chuyên ngành KH&CN đều phải bảo đảm phục vụ Lãnh đạo của cơ quan quản lý hành chính nhà nước về KH&CN và chấp hành các quyết định xử lý của Lãnh đạo để bảo đảm sự thống nhất trong quản lý hành chính nhà nước về KH&CN.  

Thanh tra chuyên ngành KH&CN có những mục tiêu chung như mọi hoạt động thanh tra phục vụ công tác quản lý hành chính nhà nước đối với xã hội, nhưng do tính đặc thù của hoạt động nghiên cứu KH&CN và do kinh phí hoạt động nghiên cứu KH&CN hiện nay chủ yếu từ ngân sách nhà nước, nên thanh tra hoạt động nghiên cứu KH&CN còn có tính chất như thanh tra hành chính và phải đảm nhiệm cả vai trò hạn chế, loại trừ các hành vi tham nhũng, đặc biệt là tham nhũng cơ hội trong lĩnh vực nghiên cứu KH&CN.

Thanh tra hoạt động nghiên cứu KH&CN phải nhằm: 

Thứ nhất, bảo đảm hỗ trợ khuyến khích tạo điều kiện hoạt động nghiên cứu KH&CN của mọi thành phần trong xã hội bảo đảm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội;

Thứ hai, chú trọng ngăn ngừa, hạn chế ngay từ đầu các hành vi lợi dụng khe hở của quy định quản lý vì các động cơ vụ lợi, không lành mạnh; 

Thứ ba, kiên quyết xử lý các hành vi cố ý vi phạm quy định quản lý nhà nước về KH&CN (theo Nghị định số 64/2013/NĐ-CP và Nghị định số 93/2014/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động KH&CN, chuyển giao công nghệ); 

Thứ tư, chú ý thu nhận thông tin phản hồi từ thực tế và từ các tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý để phát hiện mọi bất cập và đề xuất hoàn thiện các quy định quản lý nhà nước về KH&CN.

 

Chi tiết bài giảng được tải tại đây:Taphuan 2016(1).ppt./.

 

Lượt xem: 23875

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)
   capcha_img
Khách online:62888
Lượt truy cập: 47189736