Thứ năm, 14/11/2024 18:05 GMT+7
Thứ ba, 15/10/2013 23:59 GMT+7

Xử lý Xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp dân sự tại Việt Nam. Thực tiễn pháp luật và đề xuất hoàn thiện

XỬ LÝ XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ BẰNG BIỆN PHÁP DÂN SỰ TẠI VIỆT NAM. THỰC TIỄN PHÁP LUẬT VÀ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN

 

    Phạm Văn Toàn - Phó Chánh Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ

 

Nói đến quyền sở hữu trí tuệ (QSHTT) là nói đến sự công nhận từ phía nhà nước đối với một quyền dân sự (quyền nhân thân, quyền tài sản) của tổ chức, cá nhân đối với tài sản sở hữu trí tuệ nhất định và có chế độ bảo vệ tài sản đó như bất kỳ tài sản nào khác. Do vậy, nếu có tranh chấp xảy ra thì biện pháp dân sự thường được áp dụng trước tiên để giải quyết.

Vấn đề bảo vệ QSHTT bằng biện pháp dân sự đã và đang rất được quan tâm tại nhiều quốc gia trên thế giới, do đây là biện pháp có nhiều ưu điểm mà pháp luật về sở hữu trí tuệ cần đề cao. Tại Việt Nam, lĩnh vực này cần phải được nghiên cứu kỹ hơn, đáp ứng được sự phát triển mạnh mẽ của lĩnh vực QSHTT - với tư cách là một quyền dân sự cần phải được bảo vệ bằng nhiều biện pháp trong đó cần chú trọng biện pháp dân sự.

Theo pháp luật Việt nam, QSHTT là chế định trong pháp luật dân sự, là lĩnh vực thuộc quan hệ pháp luật dân sự, trong đó các yếu tố cấu thành bao gồm chủ thể, khách thể và nội dung. QSHTT là một phạm trù pháp lý trong quyền sở hữu nói chung, do vậy, giống như các quyền dân sự khác, QSHTT cũng bao gồm các nhóm quy phạm liên quan đến các hình thức sở hữu, căn cứ phát sinh, chấm dứt quyền sở hữu, cách thức, biện pháp chuyển quyền sở hữu, các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu (trong đó, xử lý hành vi xâm phạm QSHTT là một nội dung quan trọng).

Bảo vệ QSHTT nói chung, bảo vệ QSHTT bằng biện pháp dân sự nói riêng là những đề tài rộng lớn, đòi hỏi phải đ­ược nghiên cứu một cách tổng quát, khoa học. Mặt khác, QSHTT là một nội dung lớn bao gồm: Quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả; quyền sở hữu công nghiệp (QSHCN) và quyền đối với giống cây trồng. Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả chỉ tập trung đi sâu tìm hiểu vấn đề: xử lý xâm phạm  quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp dân sự trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp. Các vấn đề về quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả; quyền đối với giống cây trồng…sẽ không đề cập trong bài viết này.

1. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ XỬ LÝ XÂM PHẠM QSHCN BẰNG BIỆN PHÁP DÂN SỰ

  Tại Việt Nam, xử lý xâm phạm QSHTT nói chung và xử lý xâm phạm QSHCN nói riêng phụ thuộc vào chủ trương, chính sách về sở hữu trí tuệ ở từng giai đoạn, pháp luật về xử lý xâm phạm QSHCN cũng có những dấu ấn riêng, trong đó, xử lý xâm phạm quyền các đối tượng của QSHCN được đặc biệt nhấn mạnh và đã có bước phát triển đáng kể.

Trước khi Hội đồng nhà nước thông qua Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1989, thì việc bảo hộ các đối tượng của QSHCN cho các chủ thể quyền chưa được coi trọng. Theo TS. Pham Duy Nghĩa: “mãi đến đầu những năm 80, những văn bản đầu tiên về sáng chế theo mô hình pháp luật Xô viết mới được du nhập vào Việt Nam. Cũng như đối với toàn bộ tư liệu sản xuất nói chung, mô hình Xô viết không công nhận quyền tài sản về trí tuệ [1]. Đến đầu những năm 80, Chính phủ đã ban hành một số nghị định về bảo hộ sở hữu công nghiệp như: Nghị định 31/CP ngày 23/01/1981 về bảo hộ sáng chế; Nghị định 197/HĐBT ngày 14/12/1982 về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa; Nghị định số 85/HĐBT ngày 13/5/1988 về bảo hộ kiểu dáng công nghiệp; Nghị định số 200/HĐBT ngày 28/12/1988 về giải pháp hữu ích. Theo nội dung của các nghị định nêu trên thì mọi hành vi xâm phạm độc quyền của chủ văn bằng đều bị xử lý theo pháp luật. Người xâm phạm phải chấm dứt hành vi xâm phạm, bồi thường thiệt hại cho chủ văn bằng và chịu hình thức xử phạt khác tùy theo mức độ xâm phạm. Chủ văn bằng bảo hộ khi phát hiện hành vi xâm phạm độc quyền của mình, có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền, yêu cầu người xâm phạm phải chấm dứt hành vi xâm phạm.

Trong trường hợp tự xét thấy mức độ xâm phạm gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đề nghị của mình đến cơ quan có trách nhiệm không được giải quyết thỏa đáng, thì chủ văn bằng có quyền khiếu nại lên Tòa án nhân dân có thẩm quyền.

Đến năm 1989, để nâng cao tính pháp lý của việc bảo hộ QSHCN, Hội đồng nhà nước đã thông qua Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Lần đầu tiên khái niệm “sở hữu công nghiệp” (SHCN) được chính thức sử dụng trong các văn bản của nhà nước. Trong đó thừa nhận quyền sở hữu công nghiệp là quyền tư hữu [2]. Năm 1993, Cục sáng chế được đổi tên thành Cục Sở hữu công nghiệp với chức năng, nhiệm vụ được bổ sung cho phù hợp với giai đoạn phát triển mới về SHCN, chuẩn bị đưa hoạt động SHCN đi vào quỹ đạo của nền kinh tế thị trường. Sự ra đời của Pháp lệnh đã tạo sự chuyển biến sâu sắc của pháp luật về bảo hộ QSHCN. Kế thừa các quy định của các văn bản trước đó, các quy định trong Pháp lệnh đã thừa nhận quyền tự bảo vệ của các chủ thể QSHCN cũng như quyền yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm QSHCN.

Để xử lý hành vi xâm phạm QSHCN thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án, ngày 22/7/1989, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành thông tư số 03/NCLP, trong đó đã đề cập đến việc hướng dẫn xử lý các hành vi xâm phạm QSHCN.

Ngày 28/10/1995, Quốc hội Việt nam đã thông qua Bộ luật Dân sự (có hiệu lực từ ngày 01/01/1996, được sửa đổi, bổ sung năm 2005) trong đó toàn bộ chương II, Phần thứ sáu đã quy định về bảo hộ QSHCN. Đây là cơ sở pháp lý cao nhất để việc bảo hộ QSHCN được thực hiện, qua đó góp phần quan trọng việc thúc đẩy phát triển sự sáng tạo không ngừng trong lĩnh vực SHCN.

Nhằm đáp ứng quá trình hội nhập của Việt Nam và thể chế hóa các quy định về bảo hộ QSHCN trong Bộ luật Dân sự, chúng ta đã ban hành một số văn bản: Nghị định số 63/CP ngày 24/10/1996 của Chính phủ quy định chi tiết về QSHCN; Nghị định 06/CP ngày 01/02/2001 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 63/CP; Nghị định số 54/2000/NĐ-CP ngày 3/10/2000 về bảo hộ QSHCN đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến SHCN[3]; Nghị định số 42/2003/NĐ-CP ngày 02/5/2003 về bảo hộ bố trí thiết kế mạch tích hợp. Các văn bản này đã có tác dụng tích cực trong việc chuyển hoá các quy định chung của BLDS về SHCN.

Ngoài việc ban hành các văn bản pháp luật nêu trên, Việt Nam đã tích cực tham gia các điều ước quốc tế trong lĩnh vực SHCN như: Công ước Paris 1883 về bảo hộ SHCN; Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa; Công ước Stockholm về Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO),  Hiệp ước hợp tác sáng chế (PTC), Hiệp định về bảo hộ sở hữu trí tuệ với Liên bang Thụy sĩ, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa kỳ (BTA)…

Đặc biệt, khi QSHTT đã trở thành yếu tố quan trọng cho sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, đứng trước yêu cầu hội nhập sâu, rộng, ngày 29/11/2005, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Sở hữu trí tuệ (có hiệu lực từ ngày 01/7/2005, được sửa đổi bổ sung ngày 19/6/2009), trong đó vấn đề bảo vệ QSHTT được đặc biệt quan tâm. Lần đầu tiên thuật ngữ “bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ” đã được sử dụng chính thức trong luật và có hẳn một chương riêng (Chương XVII) quy định xử lý xâm phạm QSHTT bằng biện pháp dân sự [4].

Như  vậy, bảo vệ QSHCN là việc pháp luật quy định các quyền nhân thân và quyền tài sản của các chủ thể quyền đối với các đối tượng SHCN đồng thời quy định các biện pháp nhằm bảo vệ QSHCN khi có hành vi xâm phạm. QSHCN như trên đã đề cập đó là quyền dân sự, do vậy theo nguyên tắc chung của pháp luật thì mọi quyền dân sự hợp pháp đều được nhà nước bảo vệ.  

2. CÁC QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ QSHCN BẰNG BIỆN PHÁP DÂN SỰ

2.1. Xác định các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật

Để xác định hành vi xâm phạm QSHCN, cần phải xác định yếu tố xâm phạm đối với đối tượng SHCN tương ứng. Yếu tố xâm phạm là sự thể hiện cụ thể kết quả của các hành vi xâm phạm quyền đối với các đối tượng SHCN. Yếu tố xâm phạm là căn cứ quan trọng nhất để khẳng định hành vi đó là hành vi xâm phạm.

Hành vi xâm phạm QSHCN được hiểu là việc cá nhân, tổ chức không phải là chủ sở hữu đối tượng SHCN theo quy định tại các điều 121 và 123 của Luật sở hữu trí tuệ mà thực hiện một trong số các hành vi sử dụng đối tượng SHCN đang trong thời hạn bảo hộ quy định tại Điều 124 của  Luật sở hữu trí tuệ mà không được phép của chủ sở hữu đối tượng SHCN, đồng thời người thực hiện hành vi đó không phải là người có quyền sử dụng trước quy định tại Điều 134 của Luật sở hữu trí tuệ và các hành vi sử dụng nói trên không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2, 3 Điều 125 của Luật sở hữu trí tuệ.

Việc xác định một hành vi là hành vi xâm phạm QSHCN phải có đầy đủ các căn cứ sau: Đối tượng bị xem xét thuộc phạm vi các đối tượng đang được bảo hộ QSHCN theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ và Nghị định số 103/2006/NĐ-CP; có yếu tố xâm phạm trong đối tượng bị xem xét; người thực hiện hành vi bị xem xét không phải là chủ thể QSHCN và không phải là người được pháp luật hoặc cơ quan có thẩm quyền cho phép theo quy định; hành vi bị xem xét xảy ra tại Việt Nam.

         2.2. Xử lý các hành vi xâm phạm quyền SHCN bằng biện pháp dân sự          

Như trên đã đề cập, QSHCN là một quyền dân sự được nhà nước bảo vệ. Bằng pháp luật, nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm QSHCN, khi xảy ra hành vi xâm phạm quyền, tùy theo tính chất, mức độ nguy hại của hành vi mà người vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.

Khi QSHCN bị xâm phạm, trước hết các chủ thể QSHCN phải tự bảo vệ mình bằng cách áp dụng biện pháp công nghệ ngằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm; yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm QSHCN phải chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại và yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm QSHCN. Chủ thể quyền cũng có thể khởi kiện ra Tòa án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Đối với một số đối tượng như: tên thương mại, chỉ dẫn địa lý thì các hành vi xâm phạm không chỉ tác động đến các chủ thể QSHCN mà còn ảnh hưởng đến người tiêu dùng và xã hội, do vậy khi tổ chức cá nhân bị thiệt hại do hành vi xâm phạm QSHCN hoặc phát hiện hành vi xâm phạm QSHCN gây thiệt hại cho người tiêu dùng hoặc cho xã hội thì cũng có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm theo quy định của pháp luật.

Trong số các biện pháp bảo vệ nêu trên, biện pháp khởi kiện ra tòa án để giải quyết bằng thủ tục dân sự đáng được coi trọng [5]. Đây là biện pháp được áp dụng để xử lý hành vi xâm phạm theo yêu cầu của chủ thể QSHCN hoặc của tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra, kể cả khi hành vi đó đã hoặc đang bị xử lý bằng biện pháp hành chính hoặc biện pháp hình sự.

2.3. Các biện pháp dân sự được áp dụng để xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp

Theo quy định tại Điều 202 của Luật sở hữu trí tuệ, để xử lý tổ chức cá nhân có hành vi xâm phạm QSHTT nói chung, tòa án có quyền áp dụng các biện pháp dân sự bao gồm: buộc chấm dứt hành vi xâm phạm; buộc xin lỗi cải chính công khai, buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; buộc bồi thường thiệt hại; buộc tiêu hủy hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hóa, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa xâm phạm QSHTT với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ [6].

Các biện pháp dân sự nêu trên cũng đã được ghi nhận trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Theo đó, tại điểm c khoản 2 Điều 12 quy định: “Mỗi bên cho phép cơ quan tư pháp của mình buộc một bên trong vụ kiện chấm dứt hành vi xâm phạm, kể cả các biện pháp ngăn ngừa sự xâm nhập vào kênh thương mại của những hàng hóa xuất nhập khẩu xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ ngay sau khi hoàn thành thủ tục hải quan đối với hàng hóa đó” [7].

Tại Điều 44 Hiệp định TRIPs thì “các cơ quan xét xử phải có quyền ra lệnh cho một bên trong vụ kiện chấm dứt sự xâm phạm, để cùng với các mục đích khác nhằm ngăn cản sự xâm nhập của hàng hóa nhập khẩu xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ vào các kênh thương mại trong phạm vi quyền hạn của mình sau khi tiến hành thủ tục hải quan” [8]. Như vậy, theo các Hiệp định nêu trên thì Tòa án yêu cầu bên vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm là một biện pháp ngăn chặn có thể được áp dụng cả trước khi thụ lý xét xử vụ việc.

Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm là việc Tòa án quyết định buộc người có hành vi xâm phạm QSHCN chấm dứt ngay hành vi xâm phạm theo yêu cầu của người khởi kiện (ví dụ: buộc người có hành vi xâm phạm QSHCN đối với nhãn hiệu chấm dứt việc sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hóa, dịch vụ trùng với hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó). Tòa án có thể quyết định buộc người có hành vi xâm phạm QSHCN chấm dứt hành vi xâm phạm trong bản án hoặc trong quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Trong đó Tòa án phải nêu cụ thể các QSHCN bị xâm phạm và các hành vi xâm phạm QSHCN, đồng thời Tòa án cũng quy định rõ những việc người có hành vi xâm phạm QSHCN phải thực hiện và không được thực hiện để thi hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Tòa.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 123 của BLTTDS thì quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có hiệu lực thi hành ngay. Do đó nếu người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc chấm dứt hành vi xâm phạm QSHCN khiếu nại quyết định đó thì trong thời hạn khiếu nại, giải quyết khiếu nại họ vẫn phải thi hành quyết định. Đối với trường hợp Tòa án quyết định trong bản án việc buộc chấm dứt hành vi xâm phạm QSHCN mà bản án đó bị kháng cáo, kháng nghị thì theo quy định tại khoản 1 Điều 254 của BLTTDS thì phần của bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì chưa được đưa ra thi hành, trừ trường hợp pháp luật quy định cho thi hành ngay. Do vậy, cần căn cứ vào quy định cụ thể của văn bản quy phạm pháp luật cho thi hành ngay phần bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị và quy định của khoản 1 Điều 254 của BLTTDS để tuyên trong bản án, quyết định là: Quyết định buộc chấm dứt hành vi xâm phạm QSHCN được thi hành ngay mặc dù bị kháng cáo, kháng nghị.

Buộc xin lỗi, cải chính công khai cũng là một biện pháp được quy định tại điều 202 của Luật SHTT. Đây là biện pháp do Tòa án quyết định trong bản án, quyết định về việc buộc người có hành vi xâm phạm QSHCN phải xin lỗi, cải chính công khai nhằm khôi phục danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh tiếng... cho chủ thể QSHCN bị xâm phạm. Việc buộc xin lỗi, cải chính công khai nhằm mục đích bảo vệ quyền nhân thân của tác giả và khôi phục danh dự, uy tín cho tác giả. Trong trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về nội dung, cách thức xin lỗi, cải chính công khai và chi phí để thực hiện việc xin lỗi, cải chính đó mà thỏa thuận đó không trái pháp luật, đạo đức xã hội thì tòa án công nhận sự thỏa thuận của họ. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được với nhau về nội dung, cách thức thực hiện việc xin lỗi, cải chính công khai và chi phí thực hiện thì Tòa án căn cứ vào tính chất hành vi xâm phạm và mức độ, hậu quả do hành vi đó gây ra quyết định về nội dung, thời lượng xin lỗi, cải chính công khai và chi phí thực hiện. Việc xin lỗi, cải chính công khai có thể được thực hiện trực tiếp tại nơi có địa chỉ chính của người bị thiệt hại hoặc đăng công khai trên báo hàng ngày của cơ quan trung ương, báo địa phương nơi có địa chỉ chính của người bị thiệt hại trong ba số liên tiếp.

Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự là biện pháp được Tòa án quyết định áp dụng đối với người có hành vi vi phạm nghĩa vụ đối với chủ thể QSHCN. Đây là biện pháp dân sự được áp dụng khi người có nghĩa vụ mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng và phải chịu trách nhiệm dân sự đối với chủ thể QSHCN. Khi áp dụng biện pháp này cần căn cứ vào các quy định tương ứng tại các mục 2 và 3 Chương XVII, Phần thứ ba của Bộ luật dân sự 2005.

Một biện pháp dân sự quan trọng khác được sử dụng khi có hành vi xâm phạm QSHCN xảy ra đó là biện pháp buộc bồi thường thiệt hại. Theo đó, người có hành vi xâm phạm QSHCN mà gây thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần cho chủ thể QSHCN thì phải bồi thường. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người có hành vi xâm phạm quyền SHCN theo quy định của pháp luật Việt Nam được xác định theo các căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 604 của Bộ luật dân sự và hướng dẫn tại mục 1 Phần 1 của Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Thiệt hại do hành vi xâm phạm QSHCN được bồi thường bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Trong đó thiệt hại về vật chất bao gồm: các tổn thất về tài sản; mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận; tổn thất về cơ hội kinh doanh; chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại. Thiệt hại về tinh thần bao gồm: các tổn thất về danh dự, nhân phẩm, uy tín danh tiếng gây ra cho tác giả của sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí.

Thiệt hại về vật chất và tinh thần là sự tổn thất thực tế về vật chất và tinh thần do hành vi xâm phạm trực tiếp gây ra cho chủ thể QSHCN và được xác định theo các căn cứ quy định tại khoản 2 điều 16 của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP. Theo đó, được coi là tổn thất thực tế nếu có đủ các căn cứ sau đây: lợi ích vật chất hoặc tinh thần là có thực và thuộc về người bị thiệt hại; người bị thiệt hại có khả năng đạt được lợi ích; có sự giảm sút hoặc mất lợi ích của người bị thiệt hại sau khi hành vi xâm phạm xảy ra so với khả năng đạt được lợi ích đó khi không có hành vi xâm phạm và hành vi xâm phạm là nguyên nhân trực tiếp gây ra sự giảm sút, mất lợi ích đó [9].

Buộc tiêu hủy hoặc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hóa, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa xâm phạm QSHCN với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể QSHCN. Tòa án xem xét quyết định buộc tiêu hủy hoặc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hóa, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện nêu trên mà không phụ thuộc vào việc chủ thể quyền có yêu cầu hay không có yêu cầu. Khi quyết định buộc tiêu hủy hàng hóa, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa xâm phạm QSHCN, Tòa án sẽ quyết định trách nhiệm của người có hành vi xâm phạm QSHCN phải chịu chi phí cho việc tiêu hủy đó.

2.4. Các quy định về quyền khởi kiện và chứng cứ chứng minh hành vi xâm phạm QSHCN.

2.4.1. Quyền khởi kiện và điều kiện khởi kiện

Quyền khởi kiện: khởi kiện vụ án dân sự là việc cá nhân, cơ quan tổ chức tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình [10]. Người khởi kiện phải có đơn khởi kiện, nội dung đơn khởi kiện phải có các nội dung quy định tại Điều 164 Bộ luật tố tụng dân sự, kèm theo đơn khởi kiện, người khởi kiện phải cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Đơn khởi kiện được nộp trực tiếp tại Tòa án hoặc gửi qua đường bưu điện. Khi nhận được đơn, Tòa án phải ghi vào sổ nhận đơn. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Tòa án phải xem xét và có một trong các quyết định sau đây: tiến hành thụ lý vụ án nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của mình; chuuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và báo cho người khởi kiện biết, nếu vụ án đó không thuộc thẩm quyền của Tòa án.

2.4.2. Chứng cứ chứng minh hành vi xâm phạm quyền SHCN

Theo quy định tại Điều 203 Luật Sở hữu trí tuệ thì: “Nguyên đơn và bị đơn trong vụ kiện xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có quyền và nghĩa vụ chứng minh theo quy định tại Điều 79 của BLTTDS và theo quy định tại Điều này” (Điều 203.1 Luật SHTT) [6]. Như vậy, một trong những quyền và nghĩa vụ đầu tiên của chủ sở hữu quyền và của người vi phạm quyền là quyền và nghĩa vụ chứng minh đã được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự: “đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp”. (khoản 1, Điều 79, BLTTDS).

Đối với nguyên đơn: theo quy định tại khoản 2 Điều 203 của Luật Sở hữu trí tuệ, để chứng minh là chủ thể QSHCN, nguyên đơn phải đưa ra một trong các chứng cứ sau đây: Văn bằng bảo hộ, Sổ đăng ký quốc gia về SHCN, chứng cứ cần thiết để chứng minh quyền đối với bí mật kinh doanh, tên thương mại, nhãn hiệu nổi tiếng; bản sao hợp đồng sử dụng đối tượng SHCN trong trường hợp quyền sử dụng được chuyển giao theo hợp đồng.

         Ngoài ra nguyên đơn phải cung cấp các chứng cứ về hành vi xâm phạm QSHCN hoặc hành vi cạnh tranh không lành mạnh (khoản 3 Điều 203 Luật SHTT). Theo quy định tại Điều 25 của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP thì các tài liệu, hiện vật sau được coi là chứng cứ chứng minh hành vi xâm phạm QSHCN: bản gốc hoặc bản sao hợp pháp tài liệu mô tả, mẫu vật, hiện vật có liên quan thể hiện đối tượng được bảo hộ; Vật mẫu, hiện vật có liên quan, ảnh chụp, bản ghi hình sản phẩm bị xem xét; bản giải trình, so sánh giữa sản phẩm bị xem xét với đối tượng được bảo hộ; biên bản, lời khai, tài liệu khác nhằm chứng minh xâm phạm [9]. 

        Đối với bị đơn: theo quy định tại khoản 2 Điều 79 BLTTDS thì: “đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh” (Điều 79.2 BLTTDS). Trường hợp một bên trong vụ kiện xâm phạm QSHTT chứng minh được chứng cứ thích hợp để chứng minh cho yêu cầu của mình bị bên kia kiểm soát do đó không thể tiếp cận được thì có quyền yêu cầu tòa án buộc bên kiểm soát chứng cứ phải đưa ra chứng cứ đó” [6]. Đây là sự nội luật hóa quy định trong Hiệp định TRIPs: cách thu thập chứng cứ đang nằm trong sự kiểm soát của phía bên kia rằng khi một bên trong vụ kiện đã đưa ra những chứng cứ có thể có được một cách hợp lý đủ để làm căn cứ cho yêu cầu của mình đang do phía bên kia kiểm soát, thì cơ quan xét xử phải có quyền bắt buộc phía bên kia đưa ra những chứng cứ đó (khoản 1 Điều 43 Hiệp định TRIPs) [8].

2.5. Xác định thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật.

Theo quy định tại khoản 6 Điều 203 Luật Sở hữu trí tuệ thì: “trong trường hợp có yêu cầu bồi thường thiệt hại thì nguyên đơn phải chứng minh thiệt hại thực tế đã xẩy ra và nêu căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 205 của Luật Sở hữu trí tuệ”.

Thiệt hại được xác định theo quy định tại Điều 204 Luật Sở hữu trí tuệ gồm có: i) thiệt hại về vật chất bao gồm các tổn thất về tài sản, mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận, tổn thất về kinh doanh, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại; ii) thiệt hại về tinh thần bao gồm các tổn thất về danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh tiếng và những tổn thất khác về tinh thần gây ra cho tác giả của sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, giống cây trồng. iii) Mức độ thiệt hại được xác định trên cơ sở các tổn thất thực tế mà chủ thể QSHCN phải chịu do hành vi xâm phạm QSHTT gây ra.

2.6. Về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Khi phát hiện vi phạm, chủ sở hữu QSHCN thường muốn có ngay được các biện pháp hữu hiệu cần thiết, nhanh chóng nhất để ngăn chặn một cách kịp thời, có hiệu quả các hành vi vi phạm quyền, lợi ích chính đáng của mình, tức là muốn hành động để chấm dứt ngay lập tức hành vi vi phạm quyền SHCN. Điều 206 Luật SHTT quy định: “khi khởi kiện hoặc sau khi khởi kiện, chủ thể QSHTT có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong các  trường hợp sau đây: a) đang có nguy cơ xẩy ra thiệt hại không thể khắc phục được cho chủ thể QSHTT; b) hàng hóa bị nghi ngờ xâm phạm QSHTT hoặc chứng cứ liên quan đến hành vi xâm phạm QSHTT có nguy cơ bị tẩu tán hoặc bị tiêu hủy nếu không được bảo vệ kịp thời”.

Điều 207 Luật SHTT quy định các biện pháp khẩn cấp tạm thời bao gồm: thu giữ, kê biên, niêm phong, cấm thay đổi hiện trạng, cấm di chuyển, cấm dịch chuyển quyền sở hữu. Như vậy, so với quy định tại BLTTDS năm 2004 thì chủ thể quyền trong Luật SHTT có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khi khởi kiện hoặc sau khi khởi kiện. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 206 của Luật SHTT thì: “Tòa án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo yêu cầu của chủ thể QSHTT quy định tại khoản 1 điều này trước khi nghe ý kiến của bên bị áp dụng biện pháp đó” [6]. Đây là quy định có tính chất đặc thù của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong vụ án liên quan đến QSHTT.

Tại đoạn 2 Điều 13 chương II của BTA quy định: Mỗi bên cho phép các cơ quan xét xử của mình được yêu cầu người nộp đơn phải nộp một khoản bảo chứng hoặc bảo đảm tương đương đủ để bảo vệ lợi ích của bị đơn và ngăn ngừa sự lạm dụng [7]. Phù hợp với yêu cầu này, tại khoản 4 Điều 117 BLTTDS và hướng dẫn tại Mục 7 của Nghị quyết số 02/2005 thì chỉ được phong tỏa tài khoản, tài sản có giá trị tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có nghĩa vụ phải thực hiện [11]. Điều 208 Luật SHTT cũng đã quy định nghĩa vụ của người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời như sau: người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại gây ra cho người bị áp dụng biện pháp đó trong trường hợp người đó không xâm phạm QSHTT. Để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ này, người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải nộp khoản bảo đảm bằng một trong các hình thức: khoản tiền bằng 20% giá trị hàng hóa cần áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc tối thiểu hai mươi triệu đồng nếu không thể xác định được giá trị hàng hóa đó; chứng từ bảo lãnh của ngân hàng hoặc của tổ chức tín dụng khác. Việc bồi thường do hành vi xâm phạm QSHTT gây ra được thực hiện theo nguyên tắc chung của BLDS, tức là phải có thiệt hại xảy ra, có lỗi, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và hậu quả xẩy ra.

Qua sự phân tích các quy định của pháp luật về bảo vệ QSHCN bằng biện dân sự cho thấy pháp luật về bảo vệ QSHCN được hình thành và phát triển song hành với chính sách phát triển kinh tế của đất nước, do vậy các quy phạm pháp luật về bảo vệ QSHCN được xây dựng và bổ sung theo hướng ngày càng toàn diện, phù hợp và hài hoà hơn với pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, cho đến nay, việc bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự tại TAND vẫn còn bộc lộ nhiều tồn tại, điều này thể hiện ở tính đồng bộ, tính minh bạch của pháp luật chưa cao, làm cho tính khả thi bị hạn chế, ảnh hưởng đến hiệu quả việc bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự. Đây là cơ sở thực tiễn để làm căn cứ cho việc đề ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ QSHCN tại Việt Nam trong thời gian tới.

3.  THỰC TRẠNG XỬ LÝ HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP BẰNG BIỆN PHÁP DÂN SỰ, NGUYÊN NHÂN

3.1. Thực trạng xử lý

Trong những năm gần đây, đặc biệt kể từ khi có Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và việc Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới thì hoạt động đăng ký xác lập quyền SHCN đã và đang ngày càng nhận được sự quan tâm của cộng đồng doanh nghiệp, của các tổ chức, cá nhân sáng tạo. Các con số thống kê về tình hình đăng ký quyền của các chủ thế và số văn bằng được cấp ngày càng tăng. Từ năm 2005 đến nay, việc đăng ký và cấp chứng nhận bảo hộ tăng bình quân hằng năm 20%, đăng ký nhãn hiệu hàng hóa tăng 25% - 30%, đăng ký bảo hộ các sáng chế cũng tăng 10% - 15%.

Cùng với sự gia tăng của các đơn đăng ký xác lập và cấp văn bằng bảo hộ quyền SHCN thì Việt Nam cũng như các nước đang phải đối mặt với tình trạng xâm phạm quyền quyền SHCN diễn ra khá gay gắt, gây nên những bức xúc không chỉ cho các chủ thể quyền SHCN mà còn cho chính người tiêu dùng và xã hội.

Phân tích số liệu chung về tình hình xâm phạm và xử lý xâm phạm qua các con số của cơ quan hành chính cho thấy: số vụ vi phạm quyền SHTT bị phát hiện tăng lên nhanh chóng qua các năm. Theo thống kê chưa đầy đủ, trong năm 2007, các lực lượng thực thi ở sáu Bộ gồm: Bộ Khoa học và Công nghệ, Thông tin truyền thông, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tài chính, Công Thương, Công an đã xử lý trên 18.000 trường hợp xâm phạm QSHTT, đã xử phạt là tiền trên 15 tỷ đồng, đồng thời tịch thu nhiều phương tiện, tang vật vi phạm hành chính khác [12]. Năm 2011, chỉ riêng Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ đã tiến hành thanh tra 61 vụ, đã xử lý 38 vụ xâm phạm về nhãn hiệu, 02 vụ xâm phạm về kiểu dáng và 05 vụ xâm phạm giải pháp hữu ích, đã xử phạt cảnh cáo 01 vụ, phạt tiền 45 vụ với tổng số tiền phạt 697.356.000 đồng và xử lý 156.426 sản phẩm xâm phạm QSHCN.

Khác với nhiều nước trên thế giới, việc bảo vệ QSHCN chủ yếu bằng biện pháp dân sự và do hệ thống tư pháp đảm trách, các cơ quan hành chính khác chỉ thực hiện những biện pháp ngăn chặn hành vi xâm phạm QSHCN ban đầu để đảm bảo tính tức thì của hoạt động thực thi. Theo họ, bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự cần được đề cao và được đánh giá là có nhiều ưu điểm hơn so với biện pháp hành chính, hình sự bởi biện pháp dân sự đã phần nào bảo đảm được trình tự, thủ tục công khai, công bằng để người tham gia tố tụng dân sự thực hiện được các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình tại TAND, bảo đảm được các nguyên tắc, thủ tục tố tụng đầy đủ, có hệ thống, xác định được rõ chức năng, thẩm quyền của cơ quan và người tiến hành tố tụng, thẩm quyền của mỗi cấp Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc dân sự. Tuy nhiên, tại Việt nam, thực tiễn giải quyết các tranh chấp QSHTT tại TAND bằng biện pháp dân sự lại không đem lại kết quả như mong muốn. Qua thống kê của TANDTC, việc giải quyết tranh chấp về QSHTT từ năm 2000 đến năm 2005 của toàn ngành Tòa án như sau: thụ lý 93 vụ, đã giải quyết 61 vụ, trong đó tạm đình chỉ, đình chỉ, rút đơn khởi kiện là 16 vụ, hòa giải thành 12 vụ, đưa ra xét xử 33 vụ (bao gồm 11 vụ tranh chấp về quyền tác giả và liên quan, 22 vụ tranh chấp về QSHCN) [14]. Từ năm 2005 đến nay, tuy chưa có số liệu thống kê cụ thể, nhưng ước tính số vụ việc xâm phạm QSHTT được Tòa án thụ lý giải quyết trung bình mỗi năm chỉ khoảng từ 10 vụ.

Như vậy, số vụ việc xâm phạm quyền SHCN được xét xử tại Toà án rất khiêm tốn so với việc xử lý của các cơ quan chức năng khác. Điều này được phản ánh bởi những nguyên nhân sẽ được phân tích dưới đây.

2. Nguyên nhân

Thứ nhất, giải quyết các tranh chấp quyền SHCN là vấn đề khó, nhiều vụ việc đòi hỏi có kỹ thuật chuyên môn sâu, nhiều vụ việc liên quan đến bên thứ 3, có các yếu tố nước ngoài, nên quá trình cung cấp tài liệu, chứng cứ giữa các bên thường mất nhiều thời gian, dẫn đến việc giải quyết thường bị kéo dài, có trường hợp phải xét xử nhiều lần, qua nhiều cấp, gây tốn kém thời gian, tiền bạc của đương sự và của nhà nước. Đây là một điều bất lợi cho chủ thể quyền vì QSHCN của họ thường bị giới hạn trong một thời gian nhất định, hơn nữa, việc chậm giải quyết đã không đáp ứng kịp thời đối với hoạt động khai thác quyền của chủ thể quyền. Theo quy định tại Điều 179 của BLTTDS, thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm đối với vụ án dân sự là 4 tháng, kể từ ngày Tòa án thụ lý vụ án; đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì có thể gia hạn nhưng không quá 2 tháng. Tuy nhiên, với những đặc thù của tranh chấp về QSHCN thì để đáp ứng đúng thời hạn giải quyết như quy định trên vẫn còn là việc khó đối với Tòa án. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc các đương sự ít lựa chọn Toà án là một giải pháp hữu hiệu như hiện nay.

Một ví dụ để chứng minh cho tình trạng này: Công ty Gedeon Richter (gọi tắt là Công ty GR) được cấp giấy phép thành lập văn phòng đại diện tại Việt Nam là chủ sở hữu nhãn hiệu ‘‘Postinor’’ (thuốc ngừa thai khẩn cấp) được bảo hộ tại Việt Nam theo đăng ký quốc tế số R441292 ngày 19/10/1998, tháng 4 năm 2004 Công ty GR phát hiện Công ty TNHH Trung Nam và Công ty Dược Bình Dương sử dụng các chi tiết từ màu sắc, cách sắp xếp và trình bày bao gói của mẫu hộp thuốc ngừa thai mang nhãn hiệu ‘‘Posinight’’ tương tự như trên mẫu hộp thuốc ngừa thai mang nhãn hiệu "Posinor’’ của Công ty GR. Để ngăn chặn hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu của mình, Công ty GR đã làm đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh yêu cầu Công ty TNHH Trung Nam và Công ty Dược Bình Dương chấm dứt hành vi cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu trí tuệ và đòi bồi thường thiệt hại số tiền là 85.348 USD và chi phí luật sư là 9.496 USD, bồi thường tổn thất về tinh thần với mức tối thiểu là 10 tháng lương cơ bản, thu hồi và tiêu hủy tất cả các hộp thuốc có chỉ dẫn thương mại, cụ thể là hình hoa hồng màu hồng, chữ số 2 màu hồng được bố trí trên bao bì cùng với việc công khai xin lỗi trên báo Tuổi trẻ và Thanh niên trong 3 kỳ liên tiếp. Tiếp nhận đơn khởi kiện này, ngày 12/11/2004 TAND TP. Hồ Chí Minh đã thụ lý vụ án số 2360/2004/DS-ST để xem xét đơn khởi kiện của Công ty GR, tuy nhiên sau gần hai năm, với nhiều lần gia hạn, đến ngày 29/3/2006, TAND TP. Hồ Chí Minh mới mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án dân sự này và ra bản án dân sự số 275/2006/DS-ST. Căn cứ vào các quy định của pháp luật, Tòa án đã buộc Công ty TNHH Dược Trung Nam và Công ty Dược Bình Dương cùng liên đới chịu trách nhiệm bồi thường cho Công ty GR số tiền 46.969 USD, buộc chấm dứt hành vi sử dụng trái phép đối với nhãn hiệu hàng hóa mà nguyên đơn đã đăng ký bảo hộ, buộc bị đơn có trách nhiệm thu hồi và tiêu hủy toàn bộ vỏ bao bì đã sử dụng hình ảnh hoa hồng màu hồng và số 2 màu hồng mà nguyên đơn đã được bảo hộ, đồng thời thông báo về việc thu hồi này trên các phương tiện thông tin đại chúng. Bác các yêu cầu khác của nguyên đơn như đòi bồi thường tổ thất về tinh thần, công khai xin lỗi trên báo chí. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về đòi bồi thường chi phí cho Luật sư mà chỉ chấp nhận bồi hoàn chi phí cho việc thu thập thông tin của nguyên đơn là 400.000 đồng. 

Thứ hai, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án thường phải trưng cầu ý kiến của các cơ quan quản lý nhà nước về SHTT và các cơ quan chức năng có liên quan để kết luận đối với hành vi xâm phạm, nên dẫn đến tình trạng Toà án rất bị động, khó khăn cho việc ra phán quyết.

Ở vụ án dân sự nêu trên, TAND TP. Hồ Chí Minh đã phải hai lần có Công văn để đề nghị Cục Sở hữu trí tuệ cho ý kiến, ngoài ra còn phải lấy ý kiến của cơ quan chuyên môn là Cục Quản lý Dược, Bộ Y tế để phục vụ cho việc xét xử của Tòa. Tình trạng này cũng dẫn đến việc giải quyết của Tòa án bị kéo dài và trong nhiều trường hợp việc nhìn nhận, đánh giá về các hành vi xâm phạm QSHCN của các cơ quan chức năng đôi khi chưa thống nhất. Có trường hợp cơ quan chức năng còn phải đề nghị Chính phủ can thiệp vào quá trình giải quyết của của Tòa án. Điển hình là vụ kiện giữa nguyên đơn là Công ty sữa Foremost Việt Nam và Công ty TNHH công nghiệp Trường Sinh. Vụ kiện đã diễn ra trong thời gian khá dài và Tòa án đã phải xử lý các ý kiến khác nhau của các cơ quan quản lý nhà nước là Bộ Thương mại, Bộ Y tế, Cục Sở hữu trí tuệ Bộ Khoa học và Công nghệ. Theo quan điểm của Bộ Thương mại thì sản phẩm sữa đặc có đường mang nhãn hiệu ‘‘Trường Sinh’’ của Công ty Foremost  thuộc nhóm 29 trong danh mục hàng hóa của Bộ Thương mại, còn sản phẩm sữa đậu nành mang nhãn hiệu ‘‘Trường Sinh’’ của Công ty TNHH công nghiệp Trường Sinh thuộc nhóm 32, do đó đây là hai sản phẩm không cùng nhóm và không có sự xâm phạm. Theo quan điểm của Bộ Y tế thì đây là hai sản phẩm có chất dinh dưỡng khác nhau, việc có vi phạm hay không thì thuộc kết luận của Cục Sở hữu trí tuệ. Còn Cục Sở hữu trí tuệ cho biết đã từ chối cấp Giấy chứng nhận nhãn hiệu hàng hóa đối với nhãn hiệu ‘‘Sữa đậu nành cao cấp Trường Sinh" của Công ty Trường Sinh ở thời điểm năm 1998, và sau khi Công ty Foremost có đơn gửi Cục SHTT về việc Công ty Trường Sinh đã xâm phạm quyền được bảo hộ của mình thì Cục đã hai lần gửi văn bản yêu cầu Công ty Trường Sinh chấm dứt ngay việc sử dụng nhãn hiệu Trường Sinh cho sản phẩm sữa đậu nành.

  Như vậy, trong nhiều trường hợp thì Tòa án chưa đủ khả năng trong việc đưa ra nhận định về hành vi xâm phạm nên còn phụ thuộc nhiều vào kết luận các yếu tố vi phạm của cơ quan quản lý nhà nước về SHTT để kết luận có hay không có hành vi xâm phạm về SHCN như đã nêu ở trên.

Thứ ba, tâm lý ngại ra Tòa của chính các chủ thể quyền, bởi lẽ, quyền SHCN thường được gắn tới hoạt động sản xuất, kinh doanh, các chủ thể cũng rất chú trọng tới việc bảo vệ bí mật kinh doanh và bí mật của các đối tượng của QSHCN, nếu đưa tranh chấp ra trước tòa đồng nghĩa với việc phải công khai những vấn đề liên quan mà đương sự không muốn, do vậy họ lại chuyển sang chọn phương pháp đơn giản hơn, hiệu quả nhanh hơn đó là khiếu nại đến cơ quan nhà nước hoặc các lực lượng thực thi để đề nghị xử lý bằng biện pháp hành chính.

Thứ tư, việc xác định thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền SHCN là một khó khăn cho chủ thể quyền trước Toà án. Theo quy định của tố tụng dân sự, một nguyên tắc rất quan trọng là nguyên đơn phải có nghĩa vụ chứng minh trước Tòa án về mức độ thiệt hại thực tế do hành vi xâm phạm QSHCN do bên kia gây ra. Tuy nhiên, chủ sở hữu thường không đưa ra được chứng cứ chứng minh hành vi xâm phạm quyền của bị đơn hoặc không chứng minh được mức độ thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra, mặc dù hành vi xâm phạm và thiệt hại thực tế đã xẩy ra và thiệt hại tiềm ẩn nếu có do bị xâm phạm quyền, do vậy, yêu cầu đòi bồi thường thường ít được Tòa án chấp nhận toàn bộ. Ngoài ra, việc kiện ra cơ quan Tòa án thường phải chờ đợi lâu, thường từ 6 tháng đến 1 năm, song thậm chí không mang lại kết quả đã khiến nhiều chủ sở hữu đối tượng SHCN nản lòng.

Thứ năm, một số nguyên nhân khác là: chi phí cho hoạt động tư pháp thường rất tốn kém do phải thuê luật sư, bảo đảm các chi phí cho luật sư hoạt động... trong khi đó nhiều doanh nghiệp không thể đáp ứng được các chi phí này. Mặt khác, chúng ta chưa có các tổ chức thăm dò và đánh giá ý kiến của công chúng, người tiêu dùng một cách độc lập, do vậy đã làm hạn chế khả năng giải quyết của các cơ quan tư pháp. Tại nhiều nước, các cơ quan thực thi và giúp việc cho hoạt động thực thi đều có trình độ cao về SHCN như Thẩm phán, các học giả nghiên cứu, giảng dậy trong các trường đại học, những người hoạt động trong lĩnh vực SHTT và các tổ chức đại diện SHTT. Trong khi đó, tại Việt Nam, kinh nghiệm trong hoạt động thực thi còn rất ít (chỉ khoảng 10 năm), do vậy không tránh khỏi những khó khăn, bỡ ngỡ [15].

Ngoài ra, trong quan niệm của nhiều chủ sở hữu đối tượng QSHCN thì Tòa án nhân dân còn thiếu các Thẩm phán có trình độ chuyên môn vững vàng trong lĩnh vực SHCN, do hệ thống pháp luật nội dung còn nhiều điểm chưa thống nhất khiến cho các bản án, quyết định của Tòa án chưa mang tính thuyết phục cao, chưa tạo được lòng tin đối với chủ thể bị vi phạm. Có trường hợp sau khi có bản án của Tòa án cấp phúc thẩm, nguyên đơn vẫn cho rằng phán quyết của Tòa phúc thẩm không đúng nên đã làm đơn khiếu nại đến các cơ quan chính phủ, cơ quan đảng và báo chí...

Một thực trạng hiện nay trong việc thi hành các bản án dân sự là rất khó khăn. Theo nguồn tin của Bộ Tư pháp, thì hiện còn khoản 500.000 bản án có hiệu lực chưa được thi hành án (mà trong đó, hầu hết là các bản án dân sự). Việc các bản án có hiệu lực pháp luật chưa được thực thi trong thực tế đã làm giảm hiệu lực của việc thực thi quyền bằng trình tự dân sự.

Những nguyên nhân cơ bản này dẫn tới thực tế là các tranh chấp về QSHCN hiện nay thì nhiều song được xét xử tại Toà án là rất hạn chế, trong khi đó, các vụ việc xử lý xâm phạm bằng biện pháp hành chính được áp dụng nhiều hơn và trong chừng mực nào đó lại tỏ ra hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của chủ thể quyền. Bởi lẽ xử lý các vi phạm QSHCN theo trình tự hành chính thì thường diễn ra trong thời gian ngắn, giải quyết nhanh chóng vụ việc, đáp ứng kịp thời yêu cầu về thời gian để chủ thể quyền có thể khai thác hiệu quả các đối tượng SHCN của mình. Bên cạnh đó, thủ tục này thường đơn giản hơn, nhất là trong việc cung cấp các chứng cứ để chứng minh hành vi xâm phạm quyền của đối tượng vi phạm, vì sau đó cơ quan có thẩm quyền thực thi quyền bằng biện pháp hành chính tiếp tục chứng minh, làm rõ thông qua việc thanh tra, kiểm tra trực tiếp tại cơ sở vi phạm. Theo đánh giá tại Đề tài nghiên cứu khoa học trọng điểm cấp quốc gia về SHTT do Đại học Quốc gia thực hiện, có đến 90% số vụ việc vi phạm được giải quyết theo biện pháp xử phạt hành chính. Tình trạng này dẫn đến hệ quả là các quan hệ dân sự, các tranh chấp dân sự bị hành chính hóa quá mức, qua đó thể hiện việc bảo vệ QSHCN không triệt để và không tránh khỏi tình trạng vi phạm vẫn tiếp tục tái phạm với qui mô lớn hơn, thủ đoạn tinh vi hơn [27]. Thực tế cho thấy, các cơ quan thực thi ở Việt Nam đã cố gắng xử lý bằng biện pháp hành chính khá nhiều các hành vi giả mạo nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp của nhiều công ty, tập đoàn lớn đang kinh doanh tại Việt Nam như Honda, Luis Vuitton, Lacoste, AMP, Sisco... nhưng tình trạng vi phạm đối với các nhãn hiệu này vẫn đang tiếp diễn với quy mô rộng khắp.

 4. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP BẰNG BIỆN PHÁP DÂN SỰ

Việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự là một quá trình liên tục, có nhiều khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự quan tâm, nỗ lực của từng cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc soạn thảo, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ pháp luật liên quan đến bảo vệ QSHCN. Trong những năm gần đây, chúng ta đang tích cực triển khai xây dựng hệ thống pháp luật về SHTT, về cơ bản hệ thống pháp luật này đã được xây dựng trên nguyên tắc phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về SHTT và đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước trong điều kiện hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, do việc ban hành vào nhiều thời điểm khác nhau nên hệ thống pháp luật chưa được đồng bộ, cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện. Mặt khác, việc thực thi pháp luật bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự của chúng ta chưa được như mong muốn do rất nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan, đòi hỏi chúng ta cần sớm có biện pháp khắc phục. Có thể thấy, với hệ thống pháp luật cũng như thực tiễn thi hành pháp luật về bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự là chưa tương xứng, đòi hỏi chúng ta cần nghiên cứu để có giải pháp tháo gỡ. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã nêu, xin đưa ra một số nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự.

4.1. Nhóm giải pháp về hoàn thiện pháp luật

4.1.1. Hoàn thiện pháp luật về thủ tục tố tụng

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 là công cụ pháp lý quan trọng của Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc dân sự nói chung và các vụ việc dân sự về QSHCN nói riêng. Sau khi Quốc hội thông qua Luật SHTT ngày 29/11/2005 (sửa dổi, bổ sung năm 2009), đối chiếu các quy định của Luật SHTT với các quy định của BLTTDS ta thấy xuất hiện nhiều điểm không thống nhất. Đặc biệt, liên quan đến việc giải quyết vụ án dân sự về SHTT, do vậy, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLTTDS về các biện pháp khẩn cấp tạm thời, về sự tham gia của các cơ quan quản lý nhà nước về SHTT trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án. Cụ thể:

- Cần bổ sung vào Điều 99 của BLTTDS về “Quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời”. Theo đó, tại khoản 2 Điều 99 cần quy định: “khi khởi kiện hoặc sau khi khởi kiện, nguyên đơn là chủ thể QSHTT có quyền yêu cầu tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong các trường hợp: Đang có nguy cơ xảy ra thiệt hại không thể khắc phục được cho chủ thể QSHTT; hàng hóa bị nghi ngờ xâm phạm QSHTT hoặc chứng cứ liên quan đến hành vi xâm phạm QSHTT có nguy cơ bị tẩu tán hoặc bị tiêu hủy nếu không được bảo vệ kịp thời.”. Việc bổ sung này là rất cần thiết, phù hợp với các quy định trong các điều ước về SHTT mà Việt Nam là thành viên và đảm bảo cho phán quyết của Toà án được thực hiện nhanh chóng và hiệu quả.

- Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 120 của BLTTDS về: “Buộc thực hiện biện pháp bảo đảm” theo đó cần quy định người yêu cầu Tòa án áp dụng một trong các biện pháp khẩn cấp tạm thời do Luật SHTT quy định phải nộp khoản tiền bằng 20% giá trị hàng hóa cần áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời  hoặc tối thiểu 20 triệu đồng nếu không thể xác định được giá trị hàng hóa đó hoặc phải có chứng từ bảo lãnh của ngân hàng hoặc của tổ chức tín dụng khác.

- Cần sửa đổi, bổ sung Điều 23 của BLTTDS theo hướng: “các cơ quan quản lý nhà nước về SHTT có trách nhiệm tham gia tố tụng dân sự đối với các vụ án về bảo vệ QSHTT khi có yêu cầu của Tòa án”. Quy định này nhằm làm giảm bớt thời gian giải quyết của Toà án, các bên liên quan trực tiếp trao đổi, cho ý kiến chuyên môn tại Toà, qua đó giúp nâng cao trách nhiệm của các cơ quan liên quan trong quá trình giải quyết,

4.1.2. Hoàn thiện pháp luật về nội dung

·        Về căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại

        Mục tiêu của chủ sở hữu đối tượng QSHCN khi yêu cầu Toà án bảo vệ QSHCN của họ bằng biện pháp dân sự là được bồi thường thoả đáng và kịp thời. Do đó, nếu phán quyết của Toà án về mức bồi thường không hợp lý, lợi ích của chủ sở hữu không được bảo vệ đúng mức thì thì hiệu quả của biện pháp dân sự không đạt được. Để xác định mức bồi thường thiệt hại hợp lý, cần có hướng dẫn dựa trên tính chất của hành vi xâm phạm, hậu quả, mức độ thiệt hại, thời gian và phạm vi xảy ra hành vi xâm phạm để Toà án áp dụng. Mức bồi thường thiệt hại do Toà án quyết định nhưng không quá năm triệu đồng chỉ được áp dụng trong trường hợp theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 205 Luật SHTT (khi không thể xác định được mức bồi thường thiệt hại về vật chất theo các căn cứ quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 205 Luật SHTT). Thiệt hại về danh dự, uy tín, nhân phẩm do bị xâm phạm cần đánh giá thông qua chứng minh của đương sự, qua tài liệu cung cấp của cơ quan, nơi cư trú của đương sự…

       Việc xác định thiệt hại của chủ sở hữu các đối tượng QSHCN và lợi nhuận thu được từ hành vi xâm phạm QSHCN cần được thể hiện rõ ràng hơn trong luật. Đối với chi phí để thuê Luật sư phải là các khoản chi cụ thể cho việc Luật sư tiến hành công việc, chi phí này phải hợp lý theo giá trung bình để hoàn thành công việc, căn cứ để thanh toán là hoá đơn, chứng từ do đương sự cung cấp. 

·        Hướng dẫn về hành vi xâm phạm

        Khi xác định hành vi xâm phạm QSHCN, phải chú ý phân biệt hành vi không bị coi là xâm phạm QSHCN theo quy định tại điều 125 của Luật SHTT. Do đó, cá nhân, tổ chức thực hiện một trong các hành vi quy định tại các khoản 2 và 3 Điều 125 của luật SHTT thì không bị coi là xâm phạm QSHCN. Khi có đơn khởi kiện đối với các hành vi xâm phạm QSHCN, cần xem xét kỹ nội dung đơn của người khởi kiện để xác định hành vi đó có thuộc một trong các trường hợp nêu trên hay không, nếu có thì Tòa án phải giải thích cho người khởi kiện biết, trả lại đơn và không thụ lý giải quyết [16]. Trường hợp đã thụ lý xong mới phát hiện thấy đây không phải là hành vi xâm phạm QSHCN, thì Tòa án phải ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 192 của BLTTDS.

·        Hướng dẫn về chứng cứ

           Theo quy định tại các điều 28, 35, 126, 127, 129 và điều 188 của Luật SHTT thì người khởi kiện phải cung cấp các chứng cứ về hành vi xâm phạm.  BLTTDS tại điều 81 cũng đã quy định về điều kiện của chứng cứ, theo đó một trong những điều kiện của chứng cứ là phải được đương sự và cá nhân, cơ quan tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập theo trình tự, thủ tục do BLTTDS quy định. Trong vụ án về SHCN, cần phải xác định quan hệ pháp luật và đối tượng tranh chấp trên cơ sở đơn khởi kiện và yêu cầu của đương sự, từ đó mới có định hướng về thu thập chứng cứ có liên quan, nếu thu thập chứng cứ không đúng trọng tâm sẽ gây mất thời gian, công sức và gây phiền phức cho đương sự và Tòa án.

·        Về định giá tài sản SHCN

        Đây là vấn đề hoàn toàn mới. Khái niệm về việc định giá tài sản SHCN hoàn toàn là mới mẻ. Hiện nay, trong lĩnh vực SHCN chưa có cơ quan định giá chuyên trách, vì vậy kết quả của hội đồng định giá chỉ được Tòa án chấp nhận khi Hội đồng định giá đó được thành lập theo quy định của pháp luật hiện hành. Do vậy, trong thời gian tới cần thiết phải thành lập cơ quan định giá chuyên trách về SHCN [5] để đáp ứng cho yêu cầu của lĩnh vực này .

·        Về thời hạn trong tố tụng dân sự

        Theo quy định hiện hành thì thủ tục tố tụng dân sự đối với vụ án xâm phạm QSHCN được tiến hành theo trình tự chung là khá phức tạp, kéo dài thời gian. Thông thường một vụ kiện dân sự từ khi nộp đơn khởi kiện cho đến khi được đưa ra xét xử phải mất 4 đến 6 tháng, có trường hợp phải kéo dài hơn do qua nhiều cấp xét xử, do đó đối với các vụ án về SHCN cần có hướng dẫn hợp lý các trường hợp như tạm hoãn, tạm đình chỉ... để tránh kéo dài thời gian giải quyết của Tòa án. Nên quy định thời hạn tối đa để giải quyết vụ kiện là không quá 2 tháng kể từ ngày nộp đơn hợp lệ.

·        Về sự phối hợp giữa Tòa án và các cơ quan chức năng về SHCN

        Trong quá trình giải quyết các tranh chấp về QSHCN cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Tòa án, Viện Kiểm sát với các cơ quan chức năng về SHTT để cùng tham gia khi có vấn đề về chuyên môn liên quan. Cụ thể khi Tòa án có văn bản lấy ý kiến, thì tùy từng trường hợp cụ thể mà các cơ quan chức năng có trách nhiệm trả lời về các vấn đề mà Tòa án yêu cầu hoặc thành lập hội đồng giám định để thực hiện yêu cầu của Tòa án theo quy định của pháp luật. Khi xét xử các vụ án dân sự liên quan đến QSHCN, Tòa án cần thông báo để các cơ quan này có thể tham gia tố tụng hoặc theo dõi kết quả bảo vệ QSHCN trong phạm vi chức năng của mình. Trong quá trình xử lý xâm phạm, giải quyết tranh chấp, nếu thấy hành vi xâm phạm QSHCN đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định của BLHS thì các cơ quan chức năng thông báo và chuyển hồ sơ, tài liệu cho cơ quan điều tra để thụ lý giải quyết.

        4.2. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức

SHTT nói chung và SHCN nói riêng là lĩnh vực chuyên môn sâu, phức tạp, vì vậy, việc giải quyết tranh chấp về SHTT cần có Toà án chuyên trách thực hiện nhiệm vụ này. Nhằm tạo sự bình đẳng trong các quan hệ pháp luật thì việc giải quyết hiệu quả, công bằng, “thấu tình, đạt lý” các tranh chấp là điều không thể thiếu. So với các biện pháp giải quyết tranh chấp khác, các hình thức xử phạt của Toà án đối với các hành vi xâm phạm QSHTT dường như nghiêm khắc và có khả năng răn đe hơn cả [5]. Nhiều nước trên thế giới đã có hệ thống Tòa án SHTT như Mỹ, Nhật, Thái Lan…Do tính đặc thù của biện pháp dân sự và sự cần thiết phải tăng cường bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự nên đây là cơ sở  để hình thành hệ thống Tòa án chuyên biệt về SHTT. Thực tế, việc thành lập Tòa chuyên biệt như Thái Lan, Đức... đã tỏ ra rất hiệu quả đối với sự phát triển thương mại và đầu tư quốc tế, trong những năm nửa cuối của thập niên 90, trong điều kiện nhiều lĩnh vực kinh doanh và tài chính gặp khó khăn nhưng Thái Lan đã quyết tâm thành lập Tòa án Trung ương về SHTT và Thương mại quốc tế (viết tắt là Tòa IP&IT).

        Tại Việt Nam, trong tiến trình cải cách tư pháp, việc kiện toàn cơ cấu tổ chức của các TAND là tất yếu cần thiết và không phải là ngoại lệ. Mặc dù ở hầu hết các nước, các loại việc về QSHTT bao gồm các loại việc dân sự, hình sự và hành chính, nhưng một số nước như Cộng hòa Liên bang Đức, Thái Lan... đã thành lập Tòa án chuyên biệt xét xử các vụ xâm phạm về SHTT; một số nước lại có các Tòa chuyên xét xử các vụ xâm phạm về SHTT nằm trong Tòa án. Ở Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Anh và Xứ Uên chỉ có Tòa SHTT giải quyết các vụ án dân sự về SHTT mà không có Tòa chuyên trách để giải quyết các vụ án hình sự về SHTT, các vụ án hình sự về SHTT được giải quyết theo thủ tục thông thường. Các nước này đều có Tòa án về Văn bằng sáng chế, Tòa này có thẩm quyền đối với các vụ việc dân sự, phúc thẩm các quyết định của Văn phòng về Văn bằng sáng chế.

      Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta nên khẩn trương nghiên cứu mô hình Tòa SHTT theo kinh nghiệm của một số nước để khi có đủ điều kiện đề nghị thành lập Tòa SHTT. Trước mắt, cần đào tạo nguồn nhân lực và chuẩn bị cơ sở lý luận cho việc thành lập các Tòa chuyên trách về SHTT tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, sau đó triển khai ở các khu vực khác. Trong bài viết: “Đề xuất mô hình Toà Sở hữu trí tuệ cho Việt Nam” của tác giả Dũng Hà đăng trên báo Diễn đàn doanh nghiệp thì theo kết quả thu được từ cuộc điều tra năm 2004 của Uỷ ban Luật SHTT thuộc Hiệp hội Luật sư quốc tế về Toà SHTT chuyên trách của các nước thì việc thành lập Toà chuyên trách về SHTT là cần thiết và thực tế đã chứng minh vai trò của nó trong việc nâng cao hiệu quả thực thi, thúc đẩy hệ thống SHTT quốc gia phát triển [15]. Tuy nhiên, mô hình Toà SHTT chuyên trách vận hành có hiệu quả tại một quốc gia nào đó không có nghĩa rằng nó sẽ vận hành tốt tại quốc gia khác. Tác giả bài báo đề xuất: để góp phần thúc đẩy sự phát triển của hệ thống SHTT Việt Nam, cần thiết phải xây dựng mô hình Toà SHTT phù hợp. Toà nên được đặt tại cấp tỉnh (ban đầu có thể đặt tại các tỉnh, thành phố lớn) với thẩm quyền xét xử các vụ án liên quan đến QSHTT, bao gồm cả hình sự, dân sự và hành chính. Bên cạnh các quy định chung về nguyên tắc xét xử, cần ban hành các quy định riêng về thủ tục xét xử các vụ án về SHTT, theo đó thủ tục xét xử cần được tiến hành một cách linh hoạt, đơn giản hoá, ngắn gọn, có thể học tập kinh nghiệm của một số nước như thẩm vấn nhân chứng qua điện thoại, không được hoãn phiên toà, xét xử bí mật…Mặt khác, để đảm bảo tính chuyên môn trong quá trình xét xử, cần xây dựng cơ chế phù hợp nhằm huy động sự tham gia của các chuyên gia, thẩm định viên vào quá trình xét xử của Toà án.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, hầu hết các hành vi xâm phạm QSHCN đều có thể xử lý bằng biện pháp hành chính. Điều này đã dẫn đến tình trạng “hành chính hoá” các quan hệ dân sự. Một số trường hợp xâm phạm QSHCN tuy thuộc lĩnh vực dân sự, lẽ ra cần phải được giải quyết theo thủ tục dân sự tại Toà án nhưng lại được xử lý bằng biện pháp hành chính với quan niệm “cho đơn giản và đỡ tốn kém” [17]. Vì vậy, trong thời gian nghiên cứu để thành lập Tòa án chuyên biệt về SHTT, chúng ta cần thiết phải có quy định để giao cho Tòa án để giải quyết một số  tranh chấp thuộc đối tượng của SHCN như tranh chấp về sáng chế, bố trí thiết kế mạch tích hợp bán dẫn, tên thương mại, bí mật kinh doanh, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh. Đây là các đối tượng thể hiện rõ nét bản chất dân sự của chủ sở hữu và liên quan nhiều đến việc cung cấp chứng cứ để chứng minh  do vậy, việc phân cấp cho Tòa án để xử lý bằng biện pháp dân sự các đối tượng trên mà không giao cho các cơ quan thực thi bằng biện pháp hành chính là cần thiết [18].

4.3. Nhóm giải pháp về nâng cao năng lực của Toà án và tuyên truyền pháp luật bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự

        Có thể khẳng định rằng, về nguyên tắc, pháp luật Việt Nam đã tạo đầy đủ cơ sở pháp lý để mọi hành vi xâm phạm QSHCN đều có thể được xử lý bằng phán quyết của Toà án, nghĩa là Toà án Việt Nam cần phải được xác định là cơ quan có thẩm quyền giải quyết bất cứ vụ kiện nào có liên quan đến QSHCN mà chủ sở hữu các đối tượng QSHCN đã có đơn khởi kiện hay yêu cầu, khiếu nại đến Toà án.

      Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực của Toà án trong việc bảo vệ QSHCN như: thủ tục tố tụng phức tạp, kém hiệu quả; giải quyết vụ việc qua quá nhiều trình tự với thời gian quá lâu; các chủ thể ngại bị coi là phải ra Toà; án phí, lệ phí đắt hơn các phương thức giải quyết khác; Toà án thiếu những chuyên gia có trình độ chuyên môn cần thiết về SHCN để giải quyết tốt các loại vụ việc trong lĩnh vực này… cần sớm phải được khắc phục [19]. Đứng trước yêu cầu đó, bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật về nội dung và pháp luật về tố tụng thì cần thiết phải nâng cao trình độ và trách nhiệm của đội ngũ Thẩm phán trong hệ thống TAND.

Đối với công tác tuyên truyền pháp luật bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự cần tiến hành một số công việc như: xây dựng các phiên toà mẫu để xét xử các vụ án dân sự về SHCN, tổ chức tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm trong việc giải quyết các tình huống tại phiên toà. Thực hiện việc công bố các quyết định, bản án của Toà án về SHCN. Việc công bố này sẽ tăng cường tính minh bạch và có tác dụng trong việc giúp Toà án các cấp áp dụng thống nhất pháp luật trong công tác xét xử, nâng cao chất lượng của việc ra bản án, kinh nghiệm khai thác và đánh giá chứng cứ, đồng thời tuyên truyền cho người dân, các doanh nghiệp thấy được kết quả giải quyết các vụ án của toà án để phòng ngừa khả năng xâm phạm và hiểu được các quy định của pháp luật liên quan đến việc bảo vệ quyền SHCN.

Để các giải pháp nêu trên trở thành hiện thực và sớm đi vào thực tiễn cuộc sống, thiết nghĩ bên cạnh sự nỗ lực của các ngành, các cấp, các tổ chức xã hội, các cơ quan có thẩm quyền thì Chính phủ nên xây dựng một chiến lược cụ thể về SHTT trong đó có vấn đề bảo vệ QSHCN. Tham khảo chiến lược bảo vệ QSHTT của Nhật Bản cho thấy, sự phát triển của Nhật Bản được xây dựng dựa trên một chính sách cạnh tranh với thị trường thế giới thông qua các sản phẩm trí tuệ có hàm lượng trí tuệ cao và giá cả phù hợp. Nhân tố quan trọng khuyến khích sự phát triển của khoa học công nghệ và việc tạo ra các sản phẩm có sức cạnh tranh như trên chính là do chính sách quốc gia về bảo vệ QSHTT của Nhật Bản. Là một quốc gia Châu Á có bề dày phát triển hệ thống bảo vệ QSHTT, Nhật Bản đã làm được nhiều điều kỳ diệu khiến nhiều quốc gia trên thế giới phải học tập. Nhận thức vai trò của SHTT trong sự sinh tồn của quốc gia, Chính phủ Nhật Bản đã sớm xây dựng một chiến lược tổng thể quốc gia về bảo vệ QSHTT. Ngày 3/7/2002, Hội đồng chiến lược QSHTT do một nhóm cố vấn riêng cho Thủ tướng Junichiro Koizumi được thành lập. Những người này đã thảo ra những nét chính về chiến lược bảo hộ QSHTT của Nhật Bản, trong đó đã đưa ra các nguyên tắc cơ bản trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến bảo vệ QSHTT ở Nhật Bản và làm đất nước này trở thành một đất nước kiểu mẫu trong việc bảo vệ QSHTT trên thế giới. Chiến lược quốc gia trên của Nhật Bản cho thấy được một chu trình khép kín của việc xây dựng một hệ thống SHTT bền vững bao gồm: sáng tạo tài sản trí tuệ - Bảo vệ tài sản trí tuệ - sử dụng tài sản trí tuệ - nâng cao trình độ của con người. Điểm nổi bật của chiến lược trên là thành lập Hội đồng quốc gia về SHTT, Hội đồng này được xây dựng trên cơ sở của Luật SHTT, trong đó đích thân Thủ tướng Nhật làm chủ tịch. Hội đồng này đưa ra các chương trình cụ thể cho hoạt động SHTT của đất nước. Khẩu hiệu được Hội đồng trên đưa ra có tên: “Hành động quốc gia để tái tạo ra tài sản trí tuệ - nền tảng quốc gia”. Vì vậy, theo tác giả thì Việt Nam cũng cần thiết xây dựng chiến lược quốc gia về SHTT, trong đó xây dựng các bước đi phù hợp và hiệu quả với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam.

 

KẾT LUẬN

       Trí tuệ là một tài sản vô hình, do vậy khi nói đến QSHTT là phải nói đến quyền tài sản và phải có chế độ bảo vệ tài sản đó. Bảo vệ tài sản trí tuệ có thể được thực hiện bằng nhiều biện pháp, song cần chú ý đến việc bảo vệ bằng biện pháp dân sự. Để bảo vệ được tài sản trí tuệ cần có sự phối hợp của nhiều khâu và nhà nước phải tạo điều kiện thuận lợi để chủ thể được công nhận quyền tài sản đối với tài sản trí tuệ của mình thông qua các công đoạn như: nộp đơn, xem xét đơn, cấp văn bằng bảo hộ, giải quyết khiếu nại, tranh chấp để bảo vệ quyền…Đặc biệt, việc giải quyết khiếu nại, tranh chấp cần phải được coi trọng vì tài sản trí tuệ có đặc điểm là dễ xảy ra tranh chấp do việc sử dụng tài sản trí tuệ hoặc do quá trình đăng ký tài sản đó. Trong điều kiện toàn cầu hóa, những biến đổi cơ bản trong lĩnh vực SHCN của thế giới đã và sẽ tác động mạnh mẽ tới Việt Nam, do vậy chúng ta cần nhận thức việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự là một việc làm cần thiết, qua đó, phải có sự điều chỉnh chính sách, điều chỉnh pháp luật đối với lĩnh vực này theo quan điểm thực tiễn và phát triển.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.     Phạm Duy Nghĩa (2003) “Tài sản trí tuệ ở Việt Nam: Từ quan điểm đến các rào cản và cơ chế bảo hộ”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 01.

  1. Hội đồng nhà nước (1989), Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, Hà Nội.
  2. Chính phủ (2000), Nghị định số 54/2000/NĐ-CP ngày 3/10/2000 Qui định chi tiết đối với bí mật kinh doanh, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý và bảo hộ cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu công nghiệp, Hà Nội.

4.     Vụ Công tác lập pháp, Bộ Tư pháp (2006), Những nội dung cơ bản của Luật Sở hữu trí tuệ, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

5.           Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) (2000), Cẩm nang sở hữu trí tuệ.

  1. Quốc hội (2005), Luật  Sở hữu trí tuệ, Hà Nội.

7.     Hiệp định giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ về thương mại và sở hữu trí tuệ (Hiệp định BTA) (2001).

8.     Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPs) (1994).

  1. Chính phủ (2006), Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22/9 về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, Hà Nội.
  2.  Quốc hội (2004), Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội.
  3.  Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao (2005), Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27/4 hướng dẫn thi hành một số quy định tại Chương VIII “Các biện pháp khẩn cấp tạm thời” của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, Hà Nội.

12.                         Bộ Khoa học và Công nghệ (2007), Báo cáo Chương trình hành động về hợp tác phòng chống xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ giai đoạn 2006 – 2010, Hà Nội.

13.                         Cục Sở hữu trí tuệ (2008), Hoạt động sở hữu trí tuệ năm 2007, Hà Nội.

14.                         Lê Xuân Thảo (2005), Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ. Nxb Tư pháp, Hà Nội.

15.                          Dũng Hà (2008), Đề xuất mô hình Toà Sở hữu trí tuệ cho Việt Nam, http://www.dddn.com.vn, ngày 4/6/2008.

16.                         Bùi Thị Dung Huyền (2006), Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại Toà án nhân dân, Tạp chí Toà án nhân dân số 16, tháng 8.

  1.   Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ Tư pháp (2008), Thông tư liên tịch số 02/2008/TTLT-TANDTC-BVHTT&DL-BKHCN-BTP ngày 3/4 hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ tại Toà án nhân dân, Hà Nội.
  2.   http://www.noip.gov.vn (trang web của Cục Sở hữu trí tuệ).
  3.   http://www.vietnamnet.vn  (bài viết: “cần chế tài mạnh xử phạt vi phạm QSHTT”, ngày 01/2/2008).

20.                          Toà án nhân dân tối cao (1999), Nâng cao vai trò và năng lực của Toà án trong việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn.  Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Hà Nội.

 

Lượt xem: 39204

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)
   capcha_img
Khách online:32596
Lượt truy cập: 46000200